PV: Xin ông cho biết nhiên liệu sinh học là gì và mục tiêu cụ thể của "Đề án phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025" như thế nào?
TS. Nguyễn Phú Cường: Trong "Đề án phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025" có nêu: Nhiên liệu sinh học (NLSH) là nhiên liệu được sản xuất từ nguyên liệu là sinh khối. Khác với xăng dầu và các loại nhiên liệu hoá thạch khác, NLSH là dạng năng lượng có khả năng tái tạo. Có hai nhóm NLSH chính:
- Ethanol và methanol được sản xuất từ sinh khối (không phải từ dầu mỏ). Các nguyên liệu chủ yếu để sản xuất ethanol, methanol là các loại hạt có chứa tinh bột, các loại cây có chứa đường, thậm chí từ gỗ và phế thải nông nghiệp khác.
- Diesel sinh học (Bio-Diesel) được sản xuất từ nguyên liệu chính là các chất béo, dầu có thể tái tạo được, ví dụ dầu đậu nành, dầu dừa để sử dụng cho động cơ diesel.
Mục tiêu cụ thể của Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là đến năm 2010 sản xuất thử nghiệm và sử dụng NLSH quy mô 100 nghìn tấn E5 (9.5% xăng dầu mỏ truyền thống với 5% ethanol) và 50 nghìn tấn B5 (95% diesel dầu mỏ truyền thống với 5% diesel sinh học), bảo đảm đáp ứng 0,4% nhu cầu xăng dầu của cả nước. Đến năm 2015, sản lượng ethanol và dầu thực vật đạt 250 nghìn tấn (pha được 5 triệu tấn E5, B5), đáp ứng 1% nhu cầu xăng dầu của cả nước. Đến năm 2025 là chế biến pha trộn xăng E5 và dầu diesel B5 và đưa vào hoạt động các cơ sở pha chế công suất 100 nghìn tấn E5 và 50 nghìn tấn B5/năm.
PV: Mục tiêu rất rõ ràng, nhưng việc nghiên cứu để phát triển NLSH ở Việt Nam liệu có đáp ứng được nhu cầu, thưa ông?
TS. Nguyễn Phú Cường: Hiện nay, việc nghiên cứu và sản xuất nhiên liệu sạch sử dụng cho giao thông vận tải đã có một số cơ quan như Petrolimex, Petro Việt Nam, Đại học Kỹ thuật Đà Nẵng nghiên cứu thử nghiệm LPG, đã có kết quả được sử dụng. Riêng về nghiên cứu NLSH, đã có một số cơ quan nghiên cứu pha chế, thử nghiệm để chứng minh ethanol có thể thay thế xăng dùng làm nhiên liệu cho động cơ đốt trong, hoặc nghiên cứu Metyl este dùng làm diesel sinh học trong phòng thí nghiệm đơn lẻ. Đáng kể nhất là Công ty Phụ gia dầu mỏ (APP), Sài Gòn Petro, Công ty CP Mía Đường Lam Sơn (Thanh Hoá)… đã tham dự nhiều hội nghị quốc tế về NLSH, có quan hệ rộng rãi với các tổ chức nước ngoài đang hoạt động trong lĩnh vực năng lượng sinh học và có kế hoạch để pha chế thử nghiệm, tiến tới sản xuất ở quy mô phù hợp và đưa vào thử nghiệm sử dụng.
Viện Nghiên cứu Rượu Bia NGK cũng đã triển khai đề tài nghiên cứu sử dụng ethanol làm nhiên liệu thay thế cho một số loại động cơ và cho những kết quả khả quan về việc sản xuất và sử dụng loại nhiên liệu này. Công ty APP trong vài năm gầy đây đã pha chế, thử nghiệm sản xuất mỡ bôi trơn trên cơ sở sử dụng dầu mỡ thực vật hoá học. Bộ Khoa học và Công nghệ đã giao cho APP chủ trì đề tài độc lập cấp nhà nước: “Nghiên cứu công nghệ sản xuất nhiên liệu sinh học có pha ethanol và một số hợp chất có nguồn gốc thực vật”. Đề tài đã nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và đang chuẩn bị thử nghiệm cho các phương tiện giao thông ở quy mô lớn. Đại học Kỹ thuật Đà Nẵng cũng đã thử dùng ethanol cho xe máy. Viện Công nghiệp Thực phẩm được giao chủ trì đề tài cấp nhà nước, nghiên cứu sản xuất ethanol nhiên liệu từ phế thải nông nghiệp bằng công nghệ enzyme và vi sinh vật.
Triển khai thực hiện Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nhiều đề tài nghiên cứu triển khai, dự án sản xuất thử nghiệm liên quan đến phát triển NLSH đã được giao cho các đơn vị nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp trong cả nước tiến hành trong thời gian tới, để phục vụ mục tiêu chung của Đề án.
Theo dự báo của Bộ Công Thương, đến năm 2011, cả nước sẽ có 5 dự án sản xuất ethanol nhiên liệu với tổng công suất thiết kế đủ để pha 7,3 triệu tấn xăng E5. Các dự án sản xuất diesel sinh học tiến triển chậm hơn, do việc phát triển vùng nguyên liệu đòi hỏi thời gian nhiều hơn.
PV: Theo ông, khó khăn lớn nhất của Việt Nam trong quá trình triển khai nghiên cứu các dự án về NLSH là gì?
TS. Nguyễn Phú Cường: Khó khăn lớn nhất của chúng ta là trình độ công nghệ và thiết bị. Hầu hết các cơ sở sản xuất cồn trong nước hiện nay đều sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu, thiết bị chắp vá thiếu đồng bộ, công suất nhỏ (dưới 10 triệu lít/năm), tiêu hao nhiều năng lượng trên một đơn vị sản phẩm, hiệu suất tổng thu hồi so với lý thuyết chỉ đạt khoảng 80% (các nước tiên tiến đạt trên 90%), chỉ sử dụng nguồn nguyên liệu sinh khối truyền thống (ngũ cốc, gỉ đường) khiến giá thành sản phẩm cao. Các cơ sở sản xuất dầu mỡ động, thực vật có công nghệ thiết bị tách dầu, mỡ lạc hậu, tỷ lệ thu hồi thấp. Việc nghiên cứu phát triển công nghệ phối trộn ethanol sinh học và dầu mỡ động thực vật vào xăng dầu khoáng, tuy đã được triển khai, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Bên cạnh đó là các khó khăn về thiếu nguồn nhân lực lành nghề, các chuyên gia kỹ thuật cao cấp; đầu tư cho nghiên cứu NLSH còn nhiều hạn chế; chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành có liên quan trong việc nghiên cứu triển khai và ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất; chưa có hệ thống pháp lý hoàn chỉnh; các hoạt động hợp tác quốc tế còn quá ít và chưa đạt được hiệu quả mong muốn...
PV: Vậy, ông có thể cho biết Chính phủ sẽ tạo điều kiện như thế nào để thực hiện Đề án này?
TS. Nguyễn Phú Cường: Tổng vốn ngân sách nhà nước chi cho việc triển khai, thực hiện các nội dung của Đề án trong 9 năm (2007-2015) dự kiến khoảng 259,2 tỷ đồng (trung bình mỗi năm 28,8 tỷ đồng). Nguồn vốn này chi cho việc thực hiện các nhiệm vụ về nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng. Về cơ chế, chính sách, trong giai đoạn 2007-2015, đầu tư sản xuất NLSH được xếp vào danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư. Các doanh nghiệp đầu tư sản xuất NLSH được miễn, giảm thuế thu nhập đối với sản phẩm là NLSH theo quy định tại Nghị định số 24/2007/NĐ-CP ngày 14/02/2007 của Chính phủ, qui định chi tiết thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sản xuất NLSH được hưởng các ưu đãi tối đa về thuê đất trong thời gian 20 năm. Nguyên liệu, linh kiện, máy móc, thiết bị phục vụ cho nghiên cứu phát triển NLSH được miễn thuế nhập khẩu. Nguyên liệu, linh kiện, máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất NLSH được hưởng thuế suất nhập khẩu ở mức thấp nhất.
PV: Theo ông, để thực hiện được mục tiêu của Đề án, Việt Nam cần thực hiện những giải pháp nào?
TS. Nguyễn Phú Cường: Trong Đề án cũng đã nêu rõ các giải pháp chính là: đẩy mạnh việc triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất, khuyến khích thực hiện chuyển giao công nghệ và tạo lập môi trường đầu tư phát triển sản xuất NLSH; tăng cường đầu tư và đa dạng hoá các nguồn vốn để thực hiện có hiệu quả các nội dung của đề án; tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu phát triển NLSH; hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách, văn bản quy phạm pháp luật để phát triển NLSH; mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế để học hỏi kinh nghiệm về phát triển NLSH; nâng cao nhận thức cộng đồng về phát triển NLSH.
Bên cạnh đó, cũng cần thực hiện các dự án để hỗ trợ cho việc phát triển ngành NLSH như: Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật hỗ trợ phát triển và sử dụng E5, B5; Xây dựng các chính sách khuyến khích phát triển NLSH; Phát triển công nghệ phối trộn xăng pha ethanol; Phát triển công nghệ sản xuất diesel sinh học; Phát triển vùng nguyên liệu sản xuất ethanol và dầu mỡ động, thực vật; Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ phát triển NLSH; Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu phát triển và nhập khẩu công nghệ, bản quyền; Tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng...
Cần khẳng định, NLSH là một dạng năng lượng mới, có thể tái tạo để thay thế một phần nhiên liệu hóa thạch truyền thống, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường. Phát triển NLSH là một hướng đi cần thiết của ngành Năng lượng nước ta.
PV: Xin cảm ơn ông!