Phát triển thị trường nội địa trong bối cảnh thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới

Bài báo Phát triển thị trường nội địa trong bối cảnh thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới do Dương Thị Linh Hương (Vụ Kinh tế ngành, Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương) thực hiện.

TÓM TẮT:

Bài viết tóm tắt các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về phát triển thị trường nội địa, phân tích khái quát thực trạng phát triển thị trường nội địa, các chính sách phát triển thị trường nội địa, đánh giá tác động của các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới đối với thị trường nội địa của Việt Nam. Từ những các kết quả phân tích, bài viết đưa ra những giải pháp khai thác lợi thế từ các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mang lại, nhằm đẩy mạnh phát triển thị trường nội địa trong thời gian tới phù hợp với các định hướng lớn của Đảng về hoạt động thương mại trong nước.

Từ khóa: phát triển, thị trường nội địa, thương mại trong nước, hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

1. Đặt vấn đề

Thị trường nội địa được hiểu là thị trường diễn ra tất cả các hoạt động dịch chuyển và trao đổi sản phẩm, dịch vụ từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng.

Từ khái niệm trên, có thể hiểu “phát triển thị trường nội địa là quá trình cải thiện và tăng trưởng về quy mô, mức độ phát triển, bao gồm tăng trưởng về quy mô thị trường, đa dạng có chọn lọc các hệ thống phân phối, kênh phân phối, đa dạng thành phần kinh tế tham gia, tăng cường bảo vệ người tiêu dùng, thay đổi thói quen tiêu dùng của người dân, doanh nghiệp theo hướng văn minh, hiện đại, nâng cao các tiêu chuẩn về đạo đức kinh doanh, an toàn thực phẩm, môi trường theo hướng bền vững”. Theo đó, phát triển thị trường nội địa có những đặc điểm: (i) Tăng quy mô doanh thu, số doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia; (ii) Kết cấu hạ tầng thương mại trong nước ngày càng hiện đại; (iii) Tạo thuận tiện cho người dân, khách hàng trong hoạt động thương mại; (iv) Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; bảo vệ sở hữu trí tuệ…

2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với phát triển thị trường nội địa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Sau gần 40 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự điều hành quyết liệt, linh hoạt của Chính phủ và sự tích cực vào cuộc của cả hệ thống chính trị, Việt Nam từ một quốc gia thuộc nhóm nghèo nhất thế giới đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình và ngày càng hội nhập sâu với khu vực và thế giới. Trong sự chuyển mình đó có sự đóng góp to lớn của thị trường nội địa, khi hoạt động thương mại nội địa có sự gia tăng mạnh cả về quy mô và chất lượng. Gần đây, khi Việt Nam tham gia, ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, UKVFTA, RCEP, thị trường nội địa của Việt Nam có nhiều cơ hội lớn để mở rộng thêm về quy mô, cũng như cải thiện chất lượng hàng hóa, hiệu quả dịch vụ. Việc tận dụng những cơ hội này rất cần thiết khi thế giới đang tồn tại đan xen hai xu hướng là hội nhập và bảo hộ thị trường nội địa. Do đó, khai thác những lợi thế từ các FTA thế hệ mới mang lại được coi là giải pháp quan trọng để phát triển thị trường nội địa của Việt Nam trong thời gian tới.

Việc củng cố, thúc đẩy sự phát triển của thị trường nội địa được thể hiện trong đường lối, quan điểm, chính sách xuyên suốt của Đảng và Nhà nước, được thể hiện trong nhiều văn kiện Đại hội, Nghị quyết Trung ương của Đảng, được Chính phủ cụ thể hóa qua các Nghị quyết của Chính phủ, tựu trung thành một số quan điểm chỉ đạo chính như sau:

Thứ nhất, về phát triển thị trường trong nước nói chung: phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo các phương thức tổ chức, giao dịch văn minh, hiện đại, thương mại điện tử, gắn kết hài hòa, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế [1]; tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp sản xuất, phân phối các hiệp hội và cơ quan quản lý để phát triển mạnh thị trường trong và ngoài nước, chủ động tham gia mạng lưới phân phối toàn cầu, xây dựng thương hiệu sản phẩm quốc gia; thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông thôn để xây dựng liên kết theo chuỗi giá trị; đẩy mạnh thực hiện Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” gắn với xây dựng thương hiệu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm [2].

Thứ hai, về định hướng phát triển hệ thống hạ tầng thương mại: phát triển đồng bộ hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ, chú trọng thương mại điện tử và xây dựng thương hiệu hàng hoá Việt Nam; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới, kết nối chặt chẽ với quá trình đô thị hóa [1].

Thứ ba, tận dụng thành tựu từ quá trình hội nhập, khoa học và công nghệ để phát triển: cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học và công nghệ, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư [1]; thúc đẩy phát triển mô hình kinh doanh mới, kinh tế số, xã hội số [2]; tăng hàm lượng khoa học và công nghệ trong sản phẩm, ưu tiên phát triển các sản phẩm có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu thuộc các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông [3].

Nghị quyết số 01/NQ-CP năm 2020 đặt ra nhiệm vụ và giải pháp về củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn đưa ra chủ trương tận dụng các FTA thế hệ mới: “Tích cực chuẩn bị cho việc thực thi hiệu quả các FTA thế hệ mới; nghiên cứu, xây dựng kịch bản phù hợp tham gia các FTA thế hệ mới”.

Thứ tư, thúc đẩy thương mại trong nước gắn với phát triển bền vững: xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường [1]; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường; nâng cao tính chống chịu và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của hệ thống kết cấu hạ tầng và của nền kinh tế [2]; thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch [3].

3. Khái quát tình hình phát triển thị trường nội địa của Việt Nam

3.1. Thực trạng thị trường nội địa

Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh tham gia, ký kết các FTA thế hệ mới (từ cuối năm 2018 đến nay), thương mại nội địa đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Theo số liệu từ Niên giám Thống kê, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (TMBLHH&DTDVTD) của Việt Nam giai đoạn 2018 - 2023 có mức tăng trưởng cao. Năm 2023, TMBLHH&DTDVTD ước đạt 6.231,8 tỷ đồng, tăng hơn 9,6%, nếu loại trừ yếu tố giá sẽ tăng mức 7,1% so với năm 2022. Như vậy, TMBLHH&DTDVTD tăng 1,42 lần từ mức 4.393,5 nghìn tỷ đồng năm 2018. Tốc độ tăng trưởng TMBLHH&DTDVTD bình quân 7,42%/năm. Nếu chỉ tính riêng doanh thu bán lẻ hàng hóa, năm 2023 ước đạt 4.858,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 78% tổng mức và tăng 15,6% so với năm 2022, gấp 1,46 lần năm 2018. Tốc độ tăng trưởng bình quân của bán lẻ là 8,31%/năm.

- Về hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại (HTTM):

 (i) Hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại phục vụ hoạt động bán buôn: đến cuối năm 2023, cả nước có 231 chợ bán buôn, chiếm 2,71% tổng số chợ, chợ đầu mối chiếm khoảng 70% tổng số chợ bán buôn, trong đó chủ yếu là chợ đầu mối bán buôn nông sản, tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn, các vùng tiêu thụ tập trung, có phạm vi lan tỏa rộng liên vùng; bước đầu đã hình thành các cơ sở bán buôn chuyên nghiệp, hiện đại và có quy mô lớn bước đầu đã hình thành như chợ đầu mối bán buôn và trung tâm phân phối.

(ii) Hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại phục vụ hoạt động bán lẻ:

- Hệ thống kết cấu hạ tầng bán lẻ truyền thống: Ở các vùng nông thôn, các kênh bán lẻ truyền thống (chợ, cửa hàng tạp hóa) vẫn đang đáp ứng đến 85% nhu cầu tiêu dùng của người dân.

- Hệ thống kết cấu hạ tầng bán lẻ hiện đại: đến nay có 957 siêu thị tại 62/63 tỉnh, thành phố; và 189 trung tâm thương mại tại 51/63 tỉnh, thành phố. Riêng chuỗi các cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng tiện lợi, bán hàng trực tuyến phát triển với tốc độ nhanh chóng.

- Về phát triển thương mại điện tử và các loại hình thương mại hiện đại dựa trên nền tảng số hóa:

(i) Thương mại điện tử (TMĐT): hiện có 74% dân số Việt Nam thường xuyên tham gia mua sắm online. Doanh thu B2C (giao dịch giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng) năm 2023 ước đạt 20,5 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 7,8-8% TMBLHH&DTDVTD của cả nước [5]. Kênh bán hàng trực tuyến đang và có xu hướng vượt qua các kênh bán hàng truyền thống, dần trở thành lựa chọn chủ yếu khi mua các nhu yếu phẩm.

(ii) Sở giao dịch hàng hóa: hoạt động giao dịch qua Sở giao dịch hàng hóa cho tới nay còn nhiều hạn chế, khối lượng giao dịch rất ít, vẫn chủ yếu tập trung vào nhóm hàng nông sản. Giai đoạn 2018 - 2023, tổng lượng giao dịch qua Sở giao dịch MXV đạt bình quân 48.765,2 tỷ đồng/năm.

- Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và nhượng quyền thương mại:

(i) Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực thương mại trong nước: năm 2018, tổng vốn đăng ký đầu tư vào lĩnh vực bán buôn, bán lẻ là 3,67 tỷ USD, chiếm 10,3% tổng vốn đầu tư đăng ký [4]. Tổng vốn đăng ký có giảm tương đối qua các năm, đặc biệt tại thời điểm dịch bệnh Covid-19, nhưng năm 2024 (số liệu đến hết tháng 11/2024), ngành Bán buôn bán lẻ có tổng vốn đăng ký tăng đạt gần 1,37 tỷ USD, đứng thứ 3 về thu hút FDI trong số các ngành. Xét về số lượng dự án, bán buôn, bán lẻ luôn là ngành dẫn đầu về số dự án mới và số lượt giao dịch góp vốn mua cổ phần, chiếm lần lượt 35,3% và 42,4% trong năm 2024. Các dự án đầu tư vào hệ thống bán lẻ chủ yếu hình thành chuỗi các siêu thị, cửa hàng tiện lợi, các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài hoạt động khá hiệu quả.

(ii) Về thị phần: Theo báo cáo thường niên của Nielsen, thị phần bán lẻ của khu vực FDI đang có sự gia tăng nhanh trong giai đoạn 2018-2023. Với tiềm lực về vốn, công nghệ và năng lực quản lý, khu vực FDI mở rộng thị phần trong kênh bán lẻ hiện đại (từ 27,2% năm 2018 lên mức 33,2% năm 2023) và tăng dần hàng năm, thị phần của khu vực kinh tế trong nước đang ngày càng co lại, từ hơn 72% xuống dưới 67% và có xu hướng giảm dần. (xem Hình minh họa)

Hình: Thị phần theo khu vực kinh tế trong kênh bán lẻ hiện đại giai đoạn 2018-2023

 

Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả dựa trên số liệu trong Báo cáo thị trường trong nước của Bộ Công Thương, các Báo cáo của Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam, các Báo cáo nghiên cứu của Nielsen tại Diễn đàn VietNam Domestic Trade Forum 2024

(iii) Về nhượng quyền thương mại: năm 2022, cả nước có 299 doanh nghiệp nước ngoài đăng ký nhượng quyền thương mại (NQTM), trong đó có 83 doanh nghiệp NQTM trong lĩnh vực phân phối. Các lĩnh vực chính là nhà hàng, kinh doanh mặt hàng thời trang, kinh doanh các cửa hàng tiện lợi, cửa hàng bán lẻ (chiếm 7,98% tổng số).

- Về tổ chức hệ thống phân phối ở thị trường trong nước:

Các hệ thống phân phối trên thị trường trong nước hiện nay được hình thành và tổ chức tương ứng với 3 hệ thống thị trường [4], gồm có: (i) hệ thống phân phối hàng hóa vật tư thiết yếu phục vụ sản xuất (xăng dầu, phân bón, xi măng, thép...); (ii) hàng công nghiệp tiêu dùng; và (iii) hàng nông sản thực phẩm.

- Về hàng hóa lưu thông trên thị trường nội địa:

Qua hơn 15 năm triển khai Cuộc vận động “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”, hàng Việt (đặc biệt là hàng hóa thiết yếu, tiêu dùng) đã, đang và tiếp tục bao phủ rộng khắp các mạng lưới từ kênh phân phối truyền thống tới các hệ thống phân phối hiện đại. Theo thống kê của Ban Chỉ đạo Trung ương cuộc vận động, đối với kênh bán lẻ truyền thống, tỷ lệ hàng Việt tại các chợ, cửa hàng tiện lợi chiếm tỷ lệ từ 60% trở lên; tại các hệ thống siêu thị trong nước duy trì ở mức cao: Co.opmart (90-93%), Satra (90-95%), Vissan (95%), Vinmart (63% theo mã hàng)... Tỷ lệ hàng Việt tại các hệ thống phân phối hiện đại ở khu vực FDI cũng được duy trì ở mức cao như hệ thống của Central Retail là 90% và hệ thống của AEON Việt Nam là 80%.

3.2. Thực trạng chính sách quản lý và phát triển thị trường nội địa của Việt Nam[L1] 

- Pháp luật trong nước:

Nhiều luật và bộ luật liên quan đến hoạt động thương mại trong nước đã được ban hành, như: Luật Thương mại 2005, Pháp lệnh Quản lý thị trường, Luật Cạnh tranh, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật Giao dịch điện tử... Các nhóm chính sách chính như sau [4]:

(1) Chính sách cải thiện, tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, thuận lợi: môi trường kinh doanh trong lĩnh vực thương mại nội địa đã được cải thiện khá nhiều theo hướng thông thoáng, có tính ổn định cao, tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại nội địa.

(2) Chính sách phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại: các chính sách từ các chiến lược, quy hoạch, các nghị định về từng kết cấu hạ tầng đã được ban hành tương đối đầy đủ, bao gồm: (i) Chính sách quản lý và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại nói chung; (ii) Chính sách đầu tư và thu hút đầu tư.

(3) Chính sách hỗ trợ, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp kết nối vào hệ thống phân phối, chuỗi giá trị trong nước và khu vực: đã triển khai tương đối hiệu qua như các hoạt động kết nối cung cầu, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, được triển khai thông qua các đề án, chương trình…

4) Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị, chuỗi phân phối trong nước và của nước ngoài: đang dần được hoàn thiện phù hợp với thực tiễn phát triển.

(5) Chính sách đặc thù phát triển thương mại các khu vực nông thôn, miền núi, dân tộc và vùng đặc biệt khó khăn: đã được ban hành tương đối bao quát và đầy đủ, nhưng quá trình thực hiện vẫn còn một số bất cập.

(6) Chính sách phát triển thương mại điện tử và tiếp cận chuyển đổi số, phát triển các phương thức mua bán hàng hóa hiện đại dựa trên nền tảng số hóa: đã được ban hành, nhưng vẫn cần hoàn thiện nhiều để đáp ứng sự phát triển nhanh chóng của lĩnh vực này.

(7) Chính sách xúc tiến thương mại phát triển thị trường trong nước: Các chính sách này đã thực hiện tương đối tốt và đang được đẩy mạnh, nội dung chủ yếu gồm: (i) Chương trình xúc tiến thương mại phát triển thị trường trong nước; (ii) Chương trình xúc tiến thương mại miền núi, biên giới và hải đảo.

(8) Chính sách điều hành, quản lý thị trường trong nước gồm: đây là hoạt động được tiến hành thường xuyên, được thực hiện tốt và đóng góp lớn vào sự phát triển ổn định của nền kinh tế, gồm các chính sách: (i) Điều hành giá cả các mặt hàng thiết yếu; (ii) Bảo đảm trật tự thị trường; (iii) Bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động kinh doanh.

- Cam kết quốc tế về dịch vụ phân phối:

Việt Nam đã nội luật hóa nhiều cam kết quốc tế về dịch vụ phân phối, gần đây nhất Chính phủ đã ban hành Nghị định số 09/2018/NĐ-CP ngày  15/01/2018 để thay thế Nghị định số 23/2007/NĐ-CP, với quan điểm là thực thi nghiêm túc các cam kết quốc tế của Việt Nam về dịch vụ phân phối, nhằm củng cố, hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp lý quản lý nhà nước đối với hoạt động phân phối bán lẻ của doanh nghiệp FDI.

Trong bối cảnh Việt Nam đã tham gia và tiến tới đàm phán nhiều FTA thế hệ mới với các quốc gia và khu vực, nhu cầu đánh giá, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài rất lớn. Nhận thấy tính quan trọng của vấn đề này, Đảng và Chính phủ đã ban hành các quyết sách quan trọng như: Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030; Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 27/4/2020 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019. Hai văn bản trên mang tính nền tảng, định hướng sâu sắc hoạt động hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trong thời gian tới, trong đó có những nội dung liên quan đến hoạt động thương mại nội địa, đưa ra nhiệm vụ nghiên cứu và xây dựng các cơ chế, chính sách bảo vệ thị trường phân phối trong nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển và phù hợp với các cam kết quốc tế.

3.3. Một số tồn tại trong phát triển thị trường nội địa thời gian qua

Những tồn tại, hạn chế:

Trong giai đoạn 2018 - 2023, việc phát triển thị trường nội địa gặp một số tồn tại, hạn chế sau:

- Tăng trưởng thương mại chưa bền vững, quy mô nhỏ, chi phí lưu thông hàng hóa cao; thiếu mô hình liên kết ổn định, chuỗi cung ứng còn khá lỏng lẻo.

- Quy hoạch hạ tầng thương mại chưa đồng bộ, phát triển dàn trải, thiếu trọng tâm.

- Doanh nghiệp phân phối lớn, hiện đại còn ít, phát triển chưa đồng đều.

- Hệ thống phân phối chưa đủ mạnh để ứng phó với biến động thị trường; Hạ tầng thương mại ở một số địa phương phát triển chưa đồng đều, thiếu bền vững.

- Công tác bảo vệ thị trường chưa đủ mạnh, hàng giả, hàng kém chất lượng xuất hiện khá phổ biến; Cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động thương mại khá phố biến đã ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng.

- Thương mại điện tử tiềm ẩn nhiều nguy cơ, thiếu cơ chế quản lý hiệu quả.

- Phát triển nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu, thiếu đào tạo chuyên sâu trong quản lý lĩnh vực thương mại nội địa.

Nguyên nhân của những tồn tại này:

 - Nhận thức về vai trò thương mại trong nước chưa đầy đủ, dẫn đến xây dựng các chính sách pháp lý và khung pháp lý chưa đồng bộ, hiệu lực thực thi thấp.

- Thực tiễn thương mại thay đổi nhanh dưới tác động của toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại, xuất hiện mô hình kinh doanh mới, phương thức kinh doanh mới… vẫn chưa kịp cập nhật trong các chính sách quản lý và phát triển thị trường nội địa.

- Thiếu công cụ thực thi chính sách phát triển hạ tầng thương mại, các cơ chế thu hút đầu tư còn chưa hoàn thiện, đặc biệt đầu tư hạ tầng thương mại tại vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo.

3.4. Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế tác động đến việc phát triển thị trường nội địa

Thứ nhất, Việt Nam đã tham gia kết nhiều FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP… và đang đàm phán, ký kết nhiều FTA thế hệ mới trong tương lai.

 Các FTA thế hệ mới có các đặc điểm chính:

Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Phùng Thị Lan Hương (năm 2015), các FTA thế hệ mới có các đặc điểm:

Về đối tượng tham gia. khá đa dạng về tính chất và mở về số lượng thành viên nhưng có đặc trưng rõ rệt nhất là có sự tham gia của một đối tác tầm cỡ cho FTA thế hệ mới như Mỹ hoặc EU. Có thể kể tới một loạt các FTA thế hệ mới với sự góp mặt của các đối tác này tham gia như: TTIP, TPP, FTA EU - Canada (CETA), EU - Hàn Quốc, Mỹ - Hàn Quốc, Mỹ - Colombia… Thời gian gần đây, đối tượng tham gia FTA thế hệ mới được mở rộng hơn, nhưng FTA thế hệ mới do các nước phát triển và mới nổi dẫn dắt không nhiều và chưa thực sự có ảnh hưởng tới nền kinh tế thế giới.

Bên cạnh đó, FTA thế hệ mới gần đây có xu hướng mở rộng phạm vi địa lý từ các nước có vị trí địa lý gần nhau hoặc trong cùng một khu vực sang liên khu vực dựa trên ưu tiên quan hệ đối tác chiến lược, bị chi phối bởi các nhân tố kinh tế và chính trị liên khu vực giữa các nước đối tác, như TTIP và Hiệp định đối tác kinh tế - thương mại toàn diện EU - Canada (CETA) diễn ra giữa các đối tác hai bên bờ Đại Tây Dương, CPTPP giữa các quốc gia hai bên bờ Thái Bình Dương, EVFTA giữa EU (châu Âu) với Việt Nam (Đông Nam Á)…

Về phạm vi của các FTA thế hệ mới. FTA thế hệ mới là có tính toàn diện hơn so với FTA truyền thống, có phạm vi điều chỉnh rất rộng và toàn diện, trên các lĩnh vực thương mại hàng hóa, đầu tư, dịch vụ và còn mở rộng sang các lĩnh vực phi thương mại, phát triển bền vững như đầu tư; thuận lợi hóa hải quan; hàng rào kỹ thuật thương mại; sở hữu trí tuệ; cạnh tranh; mua sắm công; phát triển bền vững; thể chế và pháp lý… 

Đối với thương mại hàng hóa truyền thống, các nội dung như mở cửa thị trường hàng hóa, xuất nhập khẩu, thuế quan, phi thuế quan và các biện pháp tại biên giới được thực hiện tự do hóa ở cấp độ sâu rộng hơn. Hình thức các cam kết đang được chuyển từ phương pháp “chọn - cho” (positive approach) truyền thống sang phương pháp “chọn - bỏ” (negative approach) hiện đại, sâu rộng hơn,  có nghĩa là nước thành viên chọn/liệt kê ra một danh mục các lĩnh vực mà nước này chưa muốn mở cửa, hoặc mở cửa cho đối tác ở mức nhất định được nêu cụ thể, và họ sẽ có quyền chỉ mở tối thiểu như mức đã cam kết; các lĩnh vực nằm ngoài danh mục này, nước thành viên sẽ buộc phải mở toàn bộ, không có bất kỳ hạn chế gì cho đối tác. Ngoài ra, các biện pháp về vệ sinh dịch tễ, rào cản kỹ thuật trong thương mại thực hiện theo cơ chế hợp tác và siết chặt hơn; các yêu cầu, thủ tục hải quan được thực hiện một cách minh bạch hơn.

- Tác động của các cam kết FTA thế hệ mới đối với hoạt động thương mại nội địa Việt Nam[L2] 

+ Cơ hội:

(i) Đối với môi trường kinh doanh, việc tham gia các FTA thế hệ mới thúc đẩy các vấn đề thể chế, chính sách pháp luật có những thay đổi theo hướng minh bạch hơn, thuận lợi và phù hợp với thông lệ quốc tế;  

(ii) Nhiều mặt hàng làm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất trong nước có giá thấp hơn, do đó, chi phí sản xuất của các doanh nghiệp được cắt giảm, giá cả hàng hóa sẽ cạnh tranh hơn so với hàng nhập khẩu;

(iii) Đối với thu hút đầu tư nước ngoài (FDI), các nhà đầu tư nước ngoài có cơ hội tiếp cận thị trường Việt Nam nhanh hơn, ngoài ra cũng có các quy định về phát triển bền vững, giúp hạn chế bớt những công nghệ lạc hậu và thúc đẩy phát triển các công nghệ sử dụng nguồn năng thân thiện với môi trường.

+ Thách thức:

(i) Thách thức về hoàn thiện thể chế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh;

(ii) Sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp Việt Nam cũng như từng sản phẩm hiện nay còn thấp;

(iii) Đối với nhập khẩu, mặc dù đã ký kết FTA với nhiều đối tác song trong ngắn hạn, nhập khẩu của Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào các thị trường truyền thống (như Trung Quốc);

(iv) Tỷ trọng thu ngân sách nhà nước từ thuế xuất nhập khẩu trên tổng thu ngân sách nhà nước có xu hướng giảm, do thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi và ưu đãi đặc biệt vào lộ trình cắt giảm sâu;

(v) Thị trường dịch vụ tài chính trong nước chưa thực sự phát triển;

(vi) Một bộ phận cán bộ còn chưa theo kịp cầu quản lý, giám sát thị trường, cải cách thủ tục hành chính, hạn chế gian lận thương mại… khi triển khai các FTA thế hệ mới.

Thứ hai, theo Chiến lược Phát triển thị trường trong nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, một số xu hướng phát triển của thị trường nội địa thời gian tới như sau:

- Nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp vào thị trường mà tăng cường công cụ quản lý vĩ mô.

- Thương mại nội địa sẽ phát triển mạnh mẽ tại khu vực nông thôn, kết nối với các khu vực khác.

- Xu hướng ứng dụng công nghệ mới, kết hợp thương mại điện tử với thương mại truyền thống.

- Cơ sở vật chất, hạ tầng thương mại sẽ ngày càng hiện đại và đa năng.

- Doanh nghiệp gia tăng hiện diện tại nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.

- Xu hướng tăng mạnh các hoạt động mua bán và sáp nhập, gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh.

- Thực thi các hiệp định thương mại tự do tạo cơ hội cho các ngành lợi thế như du lịch, giáo dục.

- Gắn kết với bảo vệ môi trường, phát triển tiêu dùng xanh và bền vững.

 3. Giải pháp phát triển thị trường nội địa của Việt Nam nhằm khai thác các cơ hội từ FTA thế hệ mới[L3] 

Một là, hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế, thừa nhận và công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa trong lưu thông, nhằm tạo thuận lợi trong lưu thông trong nước và xuất nhập khẩu, qua đó làm đa dạng thị trường hàng hóa trong nước về mẫu mã, chủng loại, chất lượng. Mặt khác, đối mặt với nguy cơ nhập khẩu tăng, đặc biệt đối với các mặt hàng tiêu dùng giá trị cao, việc đẩy mạnh thực thi các cuộc vận động “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”, các chương trình “Xúc tiến thương mại trong nước” đối với hàng hóa Việt Nam để khuyến khích sử dụng hàng Việt, xây dựng thương hiệu Việt mạnh, đủ sức cạnh tranh trong nước và quốc tế.

Hai là, xây dựng chính sách phát triển thị trường nội địa theo hướng phù hợp với yêu cầu thực tiễn, các cam kết quốc tế nhưng phải tương thích với các luật liên quan của Việt Nam. Các chính sách phát triển thị trường nội địa gần đây, đã cởi mở hơn, phù hợp với các cam kết quốc tế trong các FTA thế hệ mới. Tuy nhiên, các chính sách này phải tương thích với các luật có liên quan vừa có những sửa đổi, bổ sung thời gian qua như Luật Doanh nghiệp 2020, Luật Đầu tư 2020, Luật Sở hữu trí tuệ 2022... Mục đích của việc hoàn thiện này nhằm thiết lập trật tự thị trường để thích ứng với bối cảnh, tình hình mới nhưng đảm bảo sự quản lý của Nhà nước trong định hướng phát triển thị trường nội địa theo hướng văn minh, hiện đại.

Ba là, xây dựng chính sách phát triển thị trường nội địa theo hướng phát triển đa dạng phương thức và hình thức tổ chức kinh doanh thương mại, kết hợp giữa thương mại truyền thống với thương mại hiện đại. Với sự tham gia mạnh mẽ của khối FDI, cần tổ chức và vận hành hiệu quả các hệ thống cung ứng, phân phối các nhóm hàng hóa chủ yếu trên thị trường, xác định các doanh nghiệp tư nhân là lực lượng nòng cốt tạo nên những động lực quan trọng, đóng góp vào sự phát triển của thương mại nội địa. Đồng thời, nâng cao vai trò của các doanh nghiệp nội địa, hỗ trợ phù hợp cam kết quốc tế để hình thành các doanh nghiệp trong nước có khả năng dẫn dắt, thống lĩnh thị trường và hạn chế chi phối của các doanh nghiệp nước ngoài, các tập đoàn đa quốc gia. Ở chiều ngược lại, các doanh nghiệp phân phối ở các nước phát triển với nhiều kinh nghiệm, tiềm lực về vốn, công nghệ, quản trị, sẽ góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp phân phối trong nước phải thích nghi và nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời qua việc đa dạng hóa các kênh phân phối, các hệ thống nhân phối sẽ giúp người tiêu dùng, khách hàng có thêm nhiều sự lựa chọn.

Bốn là, phát triển thị trường nội địa theo hướng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phân phối trong nước phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Với việc mở cửa thị trường phân phối cho các doanh nghiệp nước ngoài theo các cam kết WTO và FTA, đặc biệt là các FTA thế hệ mới, các doanh nghiệp phân phối vừa và nhỏ đang phải cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp FDI có tiềm lực về vốn, thế mạnh về công nghệ và năng lực quản lý, đặc biệt ở kênh, hệ thống bán lẻ hiện đại, kênh bán lẻ trực tuyến. Do đó, định hướng tận dụng các FTA thế hệ mới ngoài việc thu hút đầu tư FDI vào lĩnh vực bán lẻ, cũng cần khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng cường tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt để tồn tại và phát triển, tận dụng những ưu đãi về nguồn hàng tư nước ngoài, đồng thời nghiên cứu cung ứng hàng hóa Việt Nam để xuất khẩu thông qua các hệ thống bán lẻ hiện đại nước ngoài.  

Năm là, phát triển thương mại điện tử dần trở thành hình thức thương mại chủ đạo cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia. Trong bối cảnh TMĐT toàn cầu phát triển mạnh mẽ, xu hướng TMĐT xuyên biên giới ngày càng phổ biến, mọi thành phần kinh tế trong thị trường nội địa cần tích cực tham gia phương thức kinh doanh này. Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản mới để định hướng quản lý và phát triển thương mại điện tử, nhưng các doanh nghiệp cần chủ động đưa ra các giải pháp trong những lĩnh vực Việt Nam còn thiếu sau: (i) Các ứng dụng truy xuất nguồn gốc hàng hóa trong TMĐT; (ii) Ứng dụng theo dõi bản đồ gắn với mã bưu chính; (iii) Liên kết để xây dựng những sàn TMĐT, thương hiệu TMĐT Việt Nam đủ sức cạnh tranh với các nền tảng TMĐT của các FDI xây dựng; (iv) Xây dựng các ứng dụng bảo mật dữ liệu khách hàng trong hoạt động TMĐT.

Những giải pháp trên có tính khái quát vấn để, chủ yếu để chỉ ra tầm quan trọng của việc tận dụng các FTA thế hệ mới để phát triển thị trường nội địa của Việt Nam theo hướng mở rộng quy mô, hạ tầng hiện đại và tạo sự thuận tiện cho người dân. Tuy nhiên, việc tận dụng hiệu quả các FTA thế hệ mới cần sự đồng lòng của cả hệ thống chính sự, sự đồng hành, chung tay của doanh nghiệp, người dân, nhưng chủ yếu là sự quản lý nhà nước của các Bộ, ngành, có liên quan như Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ. Các Bộ, ngành, cần tiếp tục xây dựng những nghiên cứu sâu, bám sát, có đánh giá những tác động của các FTA thế hệ mới đối với thị trường nội địa qua các giai đoạn phát triển kinh tế, từ đó đưa ra những giải pháp về chính sách phù hợp, đồng thời có những khuyến nghị doanh nghiệp, người dân tích cực tham gia các chương trình, kế hoạch để phát triển các hệ thống bán buôn, bán lẻ hiện đại theo kịp xu thế phát triển trên thế giới, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân./.

Lời cảm ơn:

Bài viết thuộc Đề tài: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển thị trường nội địa trong bối cảnh thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:

1 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, XII, XII, NXB Chính trị Quốc gia.

2 Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030.

3 Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020.  

4 Bộ Công Thương (2020), Chiến lược phát triển thương mại trong nước giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Hà Nội - 2020.

5 Bộ Công Thương (2023), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Chính phủ (2024), Nghị định số 60/2024/NQ-CP ngày 05 tháng 6 năm 2024 của Chính phủ về phát triển và quản lý chợ.

Bộ Công Thương (2021), Đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” giai đoạn 2021 - 2025” (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 386/QĐ-TTg ngày 17 tháng 3 năm 2021).

Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 645/QĐ-TTg ngày 15 tháng 05 năm 2020 về phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử quốc gia giai đoạn 2021 - 2025.

Phạm Hùng Cường và Trần Anh Tài (2021), “Phát triển ngành dịch vụ phân phối ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Hà Nội - 2021

Đinh Thị Mỹ Loan (2022), “Ngành Dịch vụ bán lẻ Việt Nam trước cơ hội và thách thức mới”, Tạp chí Thương trường, số tháng 1/2022, tr. 5-8.

Developing Vietnam’s domestic market amid the implementation of new-generation free trade agreements

Duong Thi Linh Huong

Department of Sectoral Economics, Central Policy and Strategy Committee

Abstract:

This study reviews the Communist Party of Vietnam and the Government of Vietnam’s guiding principles on domestic market development in Vietnam and provides a comprehensive analysis of the current status and policies shaping the domestic market. It further evaluates the impact of new-generation Free Trade Agreements (FTAs) on Vietnam’s domestic market dynamics. Based on the analysis, the study proposes solutions to leverage the opportunities presented by these FTAs, aiming to accelerate domestic market growth in alignment with the Party’s key directives on domestic trade development.

Keywords: development, domestic market, domestic trade, new generation free trade agreement.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 16 năm 2025]

Tạp chí Công Thương