Dân ta từ ngàn đời nay đã có thói quen nói năng có vần, có nhịp điệu, đàng đối rất dễ ưa. Đây chính là cơ sở tạo nên câu đối. Và cứ như vậy, câu đối ngấm vào máu huyết, trở thành thú chơi thanh lịch, một phong cách văn hóa, độc đáo về cả phương diện trí tuệ và thẩm mỹ nghệ thuật.
Theo một số nhà nghiên cứu nhận xét: Câu đối vốn là một thể loại văn học bắt nguồn từ Trung Hoa. Thể thơ này gồm 2 câu đối nghiêm ngặt về từ ngữ, âm thanh, vần điều và ý tứ. Câu đối còn gọi là “doanh thiếp” hay “doanh liên” (doanh: cột; thiếp: tờ giấy có in chữ; liên: đối xứng với nhau). Tuy nhiên, chúng ta có thể tìm hiểu chính xác ý nghĩa của câu đối trên một số phương diện sau:
Về phương tiện chức năng xã hội: Câu đối Việt Nam có chức năng xã hội vô cùng to lớn, được sử dụng rộng rãi trong nhiều trường hợp, nhiều hoàn cảnh, mọi không gian, thời gian, mọi môi trường xã hội và chiều dài lịch sử của dân tộc.
Ông bà ta, trước đây, có phong tục viết câu đối tết. Vào sáng mùng Một tết Nguyên đán, sau khi đã làm lễ cũng tế trời đất, gia tiên, gia chủ ngồi vào án sách viết câu đối, khắc bút đề thơ, cốt bộc lộ ý nguyện, mong muốn gia đình họ tộc một năm mới an khang thịnh vượng.
Cụ Tú Xương xưa đã viết câu đối trong bài ca trù:
Nhập thế cục bất khả vô văn tự
Chẳng hay ho cũng húng hắng một đôi bài
Huống chi mình cũng đã đỗ tú tài
Ngày tết đến cũng có vài câu đối.
Câu đối tết thường viết vào giấy màu đỏ vì màu đỏ tượng trưng cho sự đầm ấm, phù hợp với không khí thiêng liêng của ngày tết cổ truyền. Màu đỏ chống được hơi sương, cái khí âm của mùa đông tháng giá. Giấy đỏ có 2 loại: hồng điều và cánh sen. Hồng điều thì rực rỡ, nồng ấm, biểu trưng của sự nhiệt thành. Màu cánh sen thì đỏ tím biếc pha chút tươi mơ, gợi ra những ước vọng. Có khi người ta dùng giấy vàng để viết câu đối. Nhưng do màu vàng có thể lẫn với màu tường vôi, nên ít được sử dụng hơn. Do vậy, tuỳ từng cảnh nền (tường), sở thích của mỗi người chất liệu để viết câu đối khác nhau, và có thể lựa chọn chữ Hán, chữ Nôm hay chữ Quốc ngữ. Câu đối có thể viết liên giấy khổ lớn in hoa văn đẹp hoặc viết trên những giải liễu gồm 14 chữ, tạo thành 2 câu, có sự đối lập rất chỉnh về cả phương diện ngôn từ và ý nghĩa. Những người chơi câu đối lâu năm khi chọn câu đối là cả một quá trình nghệ thuật. Về cơ bản, câu đối được coi như 2 vế đối nhau, và có ý chuẩn.
Câu đối phân loại căn cứ vào tính chất, ý nghĩa, mục đích. Câu đối được chia thành 2 loại: Loại mang tính quy phạm và loại mang tính thi ứng. Câu đối mang tính quy phạm thường làm ở trường thi, làm để giáo huấn, thờ phụng... Câu đối mang tính chất thi ứng, thường làm trong các dịp hội hè, văn đàm, hý lộng... lại chia thành các loại nhỏ như: châm biếm, đả kích, thử tài trí, ứng phó.
Loại câu đối để giáo huấn như:
Nhất cần thiên hạ vô nan sự
Bách nhẫn đường trung hữu thái hòa
(Mọi sự cần cù thì ở dưới trời này không có việc gì khó cả. Trăm điều nhường nhịn và kiên trì thì trong gia đình luôn có niềm vui vẻ và hạnh phúc).
Mục đích câu đối loại này hướng tới là khuyên răn những điều nhân đức, lễ nghĩa.
Loại câu đối châm biếm - đả kích: Loại này hay nói lỡm, tế nhị, không sỗ sàng; Khi nói ám, nói lái; có khi vận dụng âm thanh, ý nghĩa, hình ảnh để khơi trường liên tưởng của vế đối.
Còn cụ Tú Xương nghĩ đến “đời bạc” mà mỉa mai nhân tình thế thái
Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo
Người tình thắng thế lại bôi vôi.
Câu đối thử tài trí: Là loại câu đối dùng thử trí thông minh, phát hiện nhân tài và cốt cách của người đối. Vế đối của cậu bé Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành khi nhỏ) năm xưa làm thầy trò trong lớp kinh ngạc. Thầy Vương Thúc Quý trong một buổi dạy học, thấy một trò rót dầu vương ra đế đèn liền ra câu:
Thắp đèn lên dầu vương ra đế
Nguyễn Sinh Cung đối lại:
Cương ngựa phi thẳng tấn lên đường.
Vương vừa là lây chảy, dính vào, vừa có nghĩa là Vua. Đế: đế đèn và Hoàng đế. Tấn vừa có nghĩa là tiến vừa có nghĩa là thời nhà Tấn. Đường là đường đi và Nhà Đường. Nhà Tấn vừa lập ngôi Vương mà Nhà Đường đã lập ngôi Đế. Câu đối không chỉ chỉnh về lý, lời, ý nghĩa sâu rộng mà đã thể hiện ý chí vĩ đại của người thiếu niên 12 tuổi này.
Câu đối ứng khó trong những tình thế nghiêm trọng: Đây là câu đối cho những bậc tài cao, đức trọng, ứng tác.
Nhiều khi những câu đối loại này mang tính quốc gia trọng đại: Đối giữa các Vua ở các nước khác nhau...
Câu đối chúc mừng: Loại này gắn bó với đời sống sinh hoạt thường ngày của dân lao động. Nó là câu đối để họ bày tỏ những nỗi lòng, tình cảm, lời cầu chúc năm mới với nhau, chúc hạnh phúc đôi lứa. Cụ Tam Nguyên làm câu đối mừng tân hôn:
Bình gấm phất phơ loan múa nhạn
Trướng xuân nghiêng ngửa phượng đề oanh
(Cụ Tam Nguyên chỉ đảo lộn 2 vế chữ nho rồi đọc thành chữ Nôm, mà được đôi câu đối rất thú vị. Thật tài tình, cái vui, cái hóm là ở chỗ: hai chữ múa và đề, đọc theo giọng địa phương Bình Lục lại lơ lớ thành mó và đè, chỉ 2 động tác vợ chồng ân ái, loan mó nhạn và phượng đề oanh, để tả cảnh tân hôn. Thật đáng bái phục.
Câu đối ngày xuân, thú chơi tao nhã cho mọi người, mọi nhà, từ nông dân đến trí thức, từ kẻ nghèo hèn đến đến bậc đế vương, từ trẻ nhỏ đến người già. Đôi câu đối đỏ khiến người ta cảm thấy tết cổ truyền trở nên thiêng liêng hơn, trang trọng hơn và đặc biệt hơn những ngày bình thường khác.
Phong phú câu đối Việt Nam
TCCT
Nói đến câu đối đỏ, chắc hẳn không mấy ai thấy lạ. Thế nhưng, khi tìm hiểu cặn kẽ về nguồn gốc, sự hình thành và ý nghĩa của nó thì không mấy người biết rõ. Nhân dịp xuân mới, mời các bạn tìm hiểu về