Ông Đông đang thu xếp cho khoảng 10 nhà báo một chuyến đi thực địa tới vài dự án FDI tiêu biểu để họ tường thuật lại những gì chứng kiến. Nỗ lực đó, ông nói, là cách khách quan để đáp lại những lời phê phán ngày một tăng gần đây của các học giả, chuyên gia kinh tế về hiệu quả của không ít dự án FDI bùng nổ sau khi chính phủ phân cấp cấp phép gần như toàn diện cho chính quyền các tỉnh từ 5 năm nay.
Mượn ngòi bút của các nhà báo - Thứ trưởng Đông đã chọn cách tiếp cận mềm để đáp lại câu hỏi, rằng ông cảm thấy thế nào khi một số học giả uy tín của Việt Nam đặt vấn đề: "Thiên đường FDI, thiên đường cho ai?". Câu hỏi nghiêm túc, và đụng chạm tới chức năng quản lý nhà nước của Bộ kế hoạch và đầu tư đã lần đầu tiên được nêu ra chính thức trên những diễn đàn công khai sau khi một nhóm các nhà nghiên cứu ở Viện Kinh tế Việt Nam tổ chức những cuộc bàn thảo kín về chủ đề thu hút FDI với nhiều nhà kinh tế và học giả uy tín.
Tại cuộc hội thảo đó, các nhà kinh tế chia sẻ lo ngại chung, rằng các doanh nghiệp FDI chỉ đóng góp ít về lợi nhuận, chuyển giao công nghệ, công ăn việc làm, vốn, trong khi đang có nhiều dấu hiệu đáng lo về sử dụng quá đáng nguồn lực đất đai, vốn và năng lượng, và vì thế quay lại cạnh tranh với ngay các doanh nghiệp dân tộc. Họ muốn các cơ quan quản lý thu hút những dự án FDI chất lượng tốt hơn để giúp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Những vấn đề trên, dù chỉ được lên ra sơ lược, đã làm tự ái không ít người. "Vậy đổ lỗi cho ai, đổ lỗi cho ai đây?" nguyên cục trưởng cục đầu tư nước ngoài Phan Hữu Thắng đã nhắc lại câu hỏi với Viện trưởng Viên nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương Trần Đình Thiên khi ông có cơ hội gặp ông Thiên tại một hội thảo tổ chức sau cuộc họp của Viện này. Ông Thắng, người chứng kiến sự bùng nổ số lượng các dự án FDI đăng ký vào Việt Nam từ năm 2007 trên cương vị cao nhất của một cơ quan quản lý cho đến ngày nghỉ hưu gần năm nay, có lý do để đặt câu hỏi đó. Tuy vậy, ông Thiên, cười một cách nhún nhường, trả lời: "Có lẽ là tại cả nhà nước và nhân dân".
Về phần mình, Thứ trưởng Đông tỏ ra khá tự tin với những lời phê phán. Ông nói: "Những nhận định đánh giá mang tính lý thuyết, nguyên lý của các nhà kinh tế, các học giả, chúng tôi rất tôn trọng; nhưng những người quản lý nhà nước phải nhìn vào từng dự án cụ thể để đánh giá." Một trong những địa điểm mà Thứ trưởng không nêu tên và định tổ chức cho các nhà báo đến thăm là một nhà máy sản xuất thép. Nhà máy đó ông đã từng đến thăm và tỏ ra rất ấn tượng. Cho biết, nhà máy sử dụng công nghệ giúp thu lại tới 60-65% nhiệt lượng để sản xuất điện năng và nói thêm: "hồ nước thải của họ cá bơi trong hồ".
Bất chấp câu chuyện ấn tượng trên của thứ trưởng, có hai tổ chức đã bày tỏ sự lo lắng ra mặt với các dự án thép khổng lồ là EVN và Hiệp hội thép Việt Nam. Hai đơn vị này đã gửi riêng biệt những kiến nghị lên chính phủ về tình trạng cấp phép tràn lan cho các dự án thép tại các địa phương làm ảnh hưởng đến an ninh điện lực của quốc gia, và làm mất cân bằng thị trường. Những kiến nghị này cho thấy tính nghiêm trọng của vấn đề, và không còn là những nhận định "mang tính lý thuyết" của các học giả.
Liệu có quá tả khi người ta đòi hỏi xem lại cách thu hút FDI, nhất là khi tăng trưởng của Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào khu vực này do tỷ lệ giữa tiết kiệm và đầu tư luôn thâm hụt khoảng 10% GDP, và khu vực FDI nay đã đóng góp tới 20% GDP? Câu trả lời phụ thuộc vào từng ngành. Song với không ít nhà đầu tư, Việt Nam vẫn đang là lựa chọn tốt. Ông Sambuy, Tổng giám đốc Piaggio Việt nam nói: "Chúng tôi đang họat động rất tốt,". Ông nhận xét như vậy khi giới thiệu dòng xe Liberty đắt tiền tại khu vực phố cổ sầm uất nhất của Hà Nội gần đây.
Được khánh thành cách đây một năm rưỡi tại Vĩnh Phúc, Nhà máy Piaggio Việt Nam có số vốn đầu tư 30 triệu đôla Mỹ, công suất tối đa gần 100.000 chiếc một năm. Đây là nhà máy đầu tiên do Tập đoàn Piaggio đầu tư trực tiếp ở Châu Á. Tập đoàn Piaggio đã quyết định chuyển toàn bộ trụ sở Piaggio Châu Á từ Singapore về Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành trung tâm điều hành các họat động cuả Piaggio tại khu vực Châu Á-Thái bình dương. Ông Sambuy nói ông "rất tin tưởng" vào tiềm năng của thị trường Việt Nam đã hấp thụ các loại hàng xa xỉ - từ ô tô, xe máy, iphone, nước hoa,... - tới 10 tỷ USD chỉ trong năm 2010.
Đại sứ Italia Lorenzo Angeloni nói: "Vì sao chúng ta lại đến Việt Nam? Vì tôi thấy đây là một thị trường đang có tiềm năng phát triển rất lớn. Tôi đánh giá rất cao đất nước này, con người ở đây và thị trường ở đây". Ông đại sứ đang cố thuyết phục một nhóm các doanh nghiệp đến từ vùng công nghiệp nổi tiếng Lombardy của Ý tìm kiếm cơ hội kinh doanh tại Việt Nam. Lời nhận xét của vị đại sứ thật long lanh so với con số chỉ mới 40 dự án của Ý đầu tư vào Việt Nam trong năm ngoái, và không thể so với những quốc gia khác như Nhật Bản, Mỹ, Đài Loan, Hàn Quốc đã sớm đến đầu tư ở đây kể từ khi Việt Nam thông qua luật đầu tư nước ngoài đầu tiên năm 1987.
Cho dù bức tranh FDI vẫn còn nhiều màu sắc, Thứ trưởng Đông vẫn ủng hộ cách làm cũ. Bộ Kế hoạch và đầu tư sẽ không thu quyền của các tỉnh về. Ông khẳng định: "Với câu hỏi có thu lại không, chúng tôi trả lời là không". Nhưng cách tiếp cận sẽ khác, khi bộ này sẽ ban hành cơ chế chính sách quản lý riêng trong các lĩnh vực khai khoáng, trồng rừng, sử dụng nhiều đất đai, mặt nước và năng lượng. Đó chắc chắn sẽ là lá bài quyết định với những người còn hoài nghi về FDI, cùng với những bài viết "khách quan" mà ông hi vong từ các nhà báo sau chuyến thực địa sắp tới. Song, liệu đó có phải là cách giải quyết? Thời gian sẽ trả lời.
Quân bài với những người nghi ngờ FDI
TCCT
Thứ trưởng Kế hoạch và đầu tư Đặng Huy Đông đang giữ trong tay áo một quân bài chốt với những người hoài nghi về cách Việt Nam thu hút luồng tư bản nước ngoài.