Thực trạng thị trường công cụ phái sinh tín dụng tại Việt Nam
Giai đoạn 2010-2011, nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn khi cán cân thương mại và ngân sách thâm hụt, lạm phát và tỷ giá tăng cao làm gia tăng tính rủi ro của trái phiếu quốc tế Việt Nam. Vì vậy, các nhà đầu tư đã mua CDS để phòng vệ rủi ro, hạn chế tổn thất khi sự kiện tín dụng xảy ra. Trong giai đoạn khảo sát, thị trường CDS Việt Nam đạt giá trị cao nhất là 151.076.904 USD (tính trung bình một tuần) trong giai đoạn từ 3/9/2010 đến 25/2/2011. Đó là thời điểm Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam - Vinashin mất khả năng thanh toán các khoản lãi và gốc đến hạn của lượng trái phiếu đã phát hành trên thị trường quốc tế.
Đến nay, qua thời gian thí điểm, NHNN vẫn chưa có sự chấp thuận rõ ràng cho các ngân hàng như HSBC (chi nhánh TP. Hồ Chí Minh), Citibank (chi nhánh Hà Nội) và Standard Chartered (chi nhánh Hà Nội) tiếp tục cung cấp sản phẩm đầu tư gắn với rủi ro tín dụng, trong khi trên thị trường Việt Nam hiện nay không còn tổ chức nào được phép cung cấp sản phẩm này. Trên thực tế, chỉ những nhà ĐTNN mới có thể mua CDS với tài sản tham chiếu là trái phiếu quốc tế Việt Nam từ các tổ chức quốc tế.
Nguyên nhân chưa áp dụng phổ biến nghiệp vụ phái sinh tín dụng tại Việt Nam
Tại Việt Nam, do những hạn chế về trình độ công nghệ và chuyên môn trong khi thị trường tài chính còn kém phát triển nên các công cụ phái sinh tín dụng hầu như chưa được nhiều chủ thể biết đến và chưa được sử dụng nhiều trong thực tế kinh doanh của các ngân hàng.
Điều kiện về thị trường: Việc hình thành và phát triển các nghiệp vụ phái sinh tín dụng trước hết phải xuất phát từ nhu cầu của nền kinh tế. Các công cụ tài chính phái sinh ra đời nhằm mục đích chủ yếu là phòng ngừa rủi ro trên cơ sở dự tính chiều hướng biến động của thị trường. Do vậy, điều kiện đầu tiên để có những công cụ này chính là sự phát triển của thị trường tài chính.
Trình độ của thị trường tài chính nói chung và tín dụng nói riêng của Việt Nam trong thời gian tới vẫn còn ở mức thấp và chưa phát triển đầy đủ, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến các lựa chọn trong xử lý nợ (như chứng khoán hóa, mua bán nợ, hợp nhất…). Những vấn đề này sẽ hạn chế đáng kể phạm vi hoạt động của hệ thống QLRR tín dụng. Các điều kiện về nền tảng cơ sở hạ tầng, thể chế, đặc biệt là các quy định về hệ thống kế toán và tính tự chủ của NHTM đóng vai trò rất quan trọng. Do vậy, việc áp dụng các mô hình tiên tiến của các nước đã phát triển cần tính đến các yếu tố đặc thù của quy định trong nước.
Điều kiện về pháp lý: Để tạo một môi trường cạnh tranh tự do và bình đẳng, các cơ chế hoạt động của thị trường phải được quy định một cách rõ ràng, tạo được sự ổn định lâu dài và khuyến khích được sự tham gia thị trường của công chúng.
Hiện nay, chưa có một văn bản pháp lý nào điều chỉnh phạm vi hoạt động của nghiệp vụ tín dụng phái sinh nói riêng và trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng. Việc chưa có chính sách cụ thể về thuế thu nhập đối với các nghiệp vụ phái sinh như hoán đổi, quyền chọn… khiến cho việc triển khai các nghiệp vụ này tại NHTM ở Việt Nam gặp khó khăn.
Về nhân lực và chính sách đào tạo: Để có thể đưa nghiệp vụ QLRR tín dụng vào vận dụng cần phải có một đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Hiện nay, các NHTM ở Việt Nam đang có xu hướng bị chảy máu chất xám. Nguồn tài chính để thực hiện các chính sách đào tạo bài bản không đủ, do đó lực lượng cán bộ nòng cốt đủ khả năng tiếp nhận những nghiệp vụ này rất ít.
Về công nghệ: Sự yếu kém của hệ thống tin học, thiếu các định nghĩa chuẩn, khai báo thông tin chưa được hệ thống hóa làm cho bộ phận chịu trách nhiệm QLRR tín dụng không theo dõi kịp và càng không thể dự báo một cách thỏa đáng về mức độ tín dụng tại từng thời điểm.
Kết luận và gợi ý giải pháp
Trong thời gian tới, cần chú trọng tới việc xây dựng các văn bản hướng dẫn thống nhất về nghiệp vụ tài chính phái sinh và phái sinh tín dụng cho các NHTM. NHNN nên nghiên cứu xây dựng cơ sở pháp lý cho các công cụ phái sinh khác như các giao dịch phái sinh tín dụng, phái sinh lãi suất… đồng thời, cho phép các ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ phái sinh này, tạo điều kiện cho các NHTM cung cấp những phương tiện phòng ngừa rủi ro tín dụng cho chính bản thân các ngân hàng. NHNN cũng nên ban hành những văn bản hướng dẫn thực hiện các nghiệp vụ này đối với các NHTM. Mặt khác, lãnh đạo các ngân hàng cần nhận thức được sự cần thiết của việc sử dụng các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro tín dụng. Tại Việt Nam hiện nay, các nghiệp vụ phái sinh còn hết sức mới mẻ ngay cả đối với cán bộ lãnh đạo và nhân viên ngân hàng. Nghiệp vụ này tương đối khó về mặt kỹ thuật nhưng thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với các NHTM trong quá trình QLRR kinh doanh ngân hàng. Điều này được thể hiện ở sự phát triển mạnh mẽ của thị trường phái sinh toàn cầu cả về số lượng hợp đồng cũng như giá trị của các hợp đồng được giao dịch. Để có thể hình thành và phát triển các nghiệp vụ phái sinh, trước hết đòi hỏi các cấp lãnh đạo tại các NHTM Việt Nam cần có nhận thức và quan điểm đúng đắn về việc triển khai các nghiệp vụ này trong thực tế.
Các NHTM không thể phát triển các nghiệp vụ này nếu không có đội ngũ chuyên gia về nó. Bằng nhiều con đường khác nhau các ngân hàng phải xây dựng yếu tố tiền đề này (như thuê chuyên gia nước ngoài để đào tạo, thiết kế sản phẩm và xây dựng quy trình cho ngân hàng). Các NHTM cần có đủ số lượng nhân viên có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và kỹ năng phù hợp để triển khai nghiệp vụ phái sinh. Những nhân viên này rõ ràng phải có sự hiểu biết sâu sắc về thị trường cũng như những biến động của thị trường, về các loại công cụ tài chính phái sinh, quy cách giao dịch, kỹ thuật định giá, các loại rủi ro có liên quan và luật lệ của thị trường.
Để triển khai QLRR tín dụng hiệu quả, các ngân hàng phải có hệ thống QLRR có khả năng định lượng được rủi ro vì với việc tham gia vào kinh doanh công cụ phái sinh, việc đo lường rủi ro sẽ trở nên phức tạp hơn nhiều khi danh mục đầu tư trở nên ngày càng đa dạng. Ngân hàng cần xây dựng chất lượng danh mục tín dụng cơ sở làm cơ sở để quyết định giá cho các công cụ phái sinh khác nhau. Việc đồng bộ hóa và công khai chất lượng danh mục tín dụng cơ sở giữa các NHTM với nhau phù hợp với quy định quốc tế về xếp hạng tín dụng sẽ giúp các công cụ phái sinh tín dụng hoàn thiện hơn.