TÓM TẮT
Bối cảnh cạnh tranh trong giáo dục đại học đang ngày càng lớn, tuy nhiên ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục đại học còn hạn hẹp. Vậy nên, việc tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính nhằm phát triển nhanh và bền vững đã trở thành yêu cầu cấp thiết đối với các trường đại học công lập ở Việt Nam nói chung và các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Công Thương nói riêng.
Bài viết tập trung phân tích thực trạng quản lý tài chính tại các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Công Thương trong điều kiện thực hiện cơ chế tự chủ tài chính. Đồng thời, rút ra những kết quả đạt được, hạn chế, tồn tại và nguyên nhân, từ đó làm cơ sở đề xuất một số nhóm giải pháp giúp hoàn thiện quản lý tài chính trong thời gian tới.
Từ khóa: Quản lý tài chính, cơ chế tự chủ tài chính, đại học công lập, Bộ Công Thương.
1. Đặt vấn đề
Thực tiễn chứng minh, tài chính là nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục đại học (GDĐH). Vì nguồn tài chính là cơ sở để các trường đại học đầu tư phát triển các nguồn lực khác, như con người, cơ sở vật chất… , những yếu tố quyết định đến chất lượng GDĐH. Tuy nhiên, trong điều kiện ngân sách nhà nước (NSNN) cấp cho các trường đại học công lập (ĐHCL) chi thường xuyên và đầu tư còn hạn hẹp, nguồn thu sự nghiệp đứng trước thách thức từ cạnh tranh trong GDĐH ngày càng lớn, đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả quản lý tài chính tại các trường ĐHCL ở Việt Nam.
Các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương, tiền thân là các trường công nhân, trung cấp, nghề lâu đời ở Việt Nam được nâng cấp từ cao đẳng lên đại học trong giai đoạn 2004 – 2011. Vì vậy, nền tảng đào tạo đại học, sau đại học, nghiên cứu khoa học và kinh nghiệm quản trị đại học nói chung, cũng như quản lý tài chính nói riêng còn có những hạn chế nhất định trong quá trình phát triển. Hơn nữa, thực hiện cơ chế tự chủ tài chính theo Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở GDĐH công lập giai đoạn 2014-2017, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định quyền tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học ngày 19/11/2018, Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục đại học, đang ngày càng đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện quản lý tài chính tại các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương.
Bài viết tập trung phân tích các kết quả đạt được, hạn chế, tồn tại và nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu để hoàn thiện quản lý tài chính tại các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương trong điều kiện thực hiện cơ chế tự chủ tài chính từ nay đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 là vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
2. Thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Công Thương
Các trường ĐHCL ở Việt Nam nói chung và các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương nói riêng thực hiện cơ chế tự chủ tài chính theo quy định của Nhà nước đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Việc giao quyền tự chủ theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 thay thế Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002, đã có sự chuyển biến tích cực, tạo điều kiện cho các trường ĐHCL nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Để cụ thể hóa quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường ĐHCL, đồng thời thúc đẩy tự chủ đại học ở Việt Nam, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở GDĐH công lập giai đoạn 2014-2017.
Tiếp đến, Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định quyền tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập (thay thế Nghị định số 43/2006/NĐ-CP). Việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đã tạo điều kiện thuận lợi cho các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương chủ động khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính ngoài NSNN, thông qua việc nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các hoạt động sự nghiệp. Đồng thời, đặt ra thách thức cho các trường trong quá trình huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người học và xã hội.
Đến nay, đã có 5/9 trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương thực hiện thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ (Năm 2015 có 03 trường: Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Điện lực; Năm 2017 có 02 trường: Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp, Đại học Công nghiệp Hà Nội). Đối với 04 trường đại học còn lại, cũng đã thực hiện tự chủ một phần chi thường xuyên theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 Chính phủ.
3. Thực trạng quản lý tài chính tại các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Công Thương trong điều kiện thực hiện cơ chế tự chủ tài chính
3.1. Kết quả đạt được
Trên cơ sở dự toán tài chính hằng năm, các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương tổ chức thực hiện, đưa ra biện pháp huy động các nguồn tài chính, đồng thời triển khai kế hoạch sử dụng nguồn tài chính theo đúng mục đích, chế độ. Để theo dõi quá trình chấp hành dự toán thu chi tài chính, các trường tiến hành theo dõi chi tiết các nguồn thu và khoản chi.
- Quản lý nguồn thu, mức thu: Thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đã tạo động lực cho các trường ĐHCL tăng cường đào tạo theo nhu cầu xã hội, chủ động phát triển nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ nhằm mở rộng nguồn thu sự nghiệp thông qua việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu, mở rộng liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp.
+ Xét về quy mô nguồn tài chính: Thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đã thúc đẩy các trường tích cực, năng động khai thác nguồn tài chính ngoài NSNN. Kết quả khảo sát cho thấy, các trường ở thành phố lớn, vị trí địa lý thuận lợi, có thương hiệu và đang thực hiện thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động như Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh có nguồn thu sự nghiệp lớn, khoảng 700 tỷ đồng/năm và tăng trưởng qua các năm. Hơn nữa, nguồn thu sự nghiệp của các trường này tăng cao hơn so với trước khi thực hiện thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động. Đây là cơ sở để các trường tăng cường cơ sở vật chất, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, đối với các trường tự chủ một phần chi thường xuyên có quy mô nguồn tài chính nhỏ, dưới 100 tỷ đồng/năm và quy mô nguồn tài chính tăng trưởng không đáng kể, thậm chí có năm biến động giảm.
+ Xét về cơ cấu nguồn tài chính: Nguồn tài chính của các trường chủ yếu đến từ nguồn NSNN cấp và nguồn thu sự nghiệp; nguồn viện trợ, tài trợ và thu khác chiếm tỷ trọng không đáng kể. Đối với các trường thực hiện tự chủ chi thường xuyên và đầu tư, NSNN cấp chiếm tỷ trọng nhỏ, chủ yếu nguồn thu sự nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn từ 91,7% trở lên. Đối với các trường tự chủ một phần chi thường xuyên, NSNN cấp chiếm tỷ trọng lớn từ 49,0% đến 58,5%, nguồn thu sự nghiệp chiếm từ 41,5% đến 51,0%.
Trong cơ cấu thu sự nghiệp: Thu từ học phí là nguồn thu chính, chiếm tỷ trọng từ 59,2% đến 93,8%; thu dịch vụ chiếm tỷ trọng từ 5,2% đến 35,8%; thu khác của hầu hết các trường chiếm tỷ trọng nhỏ, dưới 10%.
- Quản lý sử dụng nguồn tài chính: Thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đã tác động tích cực đến việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài chính. Kết quả khảo sát cho thấy, 85,6% ý kiến cho rằng, thực hiện cơ chế tự chủ tài chính có tác động tốt đến việc sử dụng các nguồn lực tài chính tại các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương.
+ Xét về quy mô các khoản chi: Nguồn tài chính sử dụng cho các khoản chi của các trường giai đoạn 2014-2018 tăng bình quân 7,5%, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội có mức tăng bình quân lớn nhất là 16,9%. Trong đó, chi thường xuyên của các trường tăng bình quân 2,6%, chi không thường xuyên tăng bình quân rất lớn 40,4% - chủ yếu do các trường tăng cường đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm thiết bị,… sau khi được nâng cấp lên đại học.
+ Xét về cơ cấu chi thường xuyên: Chủ yếu chi thanh toán cá nhân chiếm từ 38,3% đến 59,6%; chi mua sắm, sửa chữa tài sản chiếm từ 22,5% đến 31,3% - chủ yếu đầu tư mua sắm, sửa chữa tài sản nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu khoa học; chi nghiệp vụ, chuyên môn chiếm từ 9,5% đến 32,1%; chi khác chiếm tỷ trọng không đáng kể (3,7% - 7,6%) trong cơ cấu chi thường xuyên.
- Quản lý kết quả tài chính trong năm và các quỹ: Mặc dù trong những năm qua, công tác tuyển sinh của không ít trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương gặp khó khăn, tuy nhiên, kết quả tài chính của các trường luôn đảm bảo thu lớn hơn chi. Đặc biệt, đối với các trường tự chủ chi thường xuyên và đầu tư có kết quả tài chính tăng cao hơn so với trước khi thực hiện thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động, điều này đã giúp cho các trường tăng trích lập các quỹ và chi thu nhập tăng thêm cho người lao động, chi cho con người bình quân tăng 15 - 20%/năm và hệ số thu nhập tăng thêm từ 1,5 - 2,5 lần so với tiền lương theo ngạch bậc, chức vụ.
- Hệ thống văn bản cơ chế tự chủ tài chính và quản lý tài chính: Văn bản pháp lý về cơ chế tự chủ trong các cơ sở giáo dục đại học từng bước được thể chế hóa, hoàn thiện. Đặc biệt, ngày 09/11/2018, Quốc hội ban hành Luật số 34/2018/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học; Chính phủ ban hành Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học. Trên cơ sở các quy định của Nhà nước, các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương đã từng bước cụ thể hóa thành các quy định, quy chế để tổ chức thực hiện quản lý tài chính trong nội bộ từng trường.
3.2. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
- Một số trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương ở địa phương do điều kiện KT-XH phát triển chưa cao đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học nên việc huy động nguồn tài chính ngoài NSNN gặp nhiều khó khăn. Nguồn tài chính có quy mô nhỏ và phụ thuộc rất lớn vào NSNN cấp, chiếm từ 49,0% đến 54,4%.
- Nguồn thu sự nghiệp của các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thu học phí, lệ phí: Các trường tự chủ chi thường xuyên và đầu tư, nguồn thu từ học phí, lệ phí chiếm trên 85%; các trường tự chủ một phần chi thường xuyên, nguồn thu học phí, lệ phí chiếm từ 65% đến 70% nguồn thu sự nghiệp. Trong khi, nguồn thu sự nghiệp khác như nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ là một trong những hoạt động chính, quan trọng của trường đại học nhưng lại chiếm tỷ trọng nhỏ. Nguồn thu từ tài trợ, viện trợ,… của các tổ chức, cá nhân còn rất hạn chế đối với nhiều trường.
- Cơ cấu các khoản chi của phần lớn các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương chưa hợp lý, chi thanh toán cá nhân của nhiều trường chiếm tỷ trọng rất lớn (trên 50% tổng chi), nhưng thu nhập bình quân của người lao động tại các trường tự chủ một phần chi thường xuyên thấp, chủ yếu là tiền lương theo ngạch bậc, chức vụ. Mặt khác, do hạn hẹp nguồn tài chính, nên việc đầu tư cơ sở vật chất còn thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng không cao.
- Trích lập quỹ của một số trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương còn chưa phù hợp, đôi khi hạch toán sai hoặc sử dụng quỹ không đúng mục đích. Chi trả thu nhập tăng thêm mang tính cào bằng, chưa căn cứ vào kết quả xếp loại công chức, viên chức, người lao động hàng năm, chưa đảm bảo được nguyên tắc người làm việc có hiệu suất lao động cao, đóng góp nhiều cho tăng thu, tiết kiệm chi được trả nhiều hơn.
- Cơ chế phân bổ NSNN còn mang tính bình quân, chủ yếu dựa trên yếu tố đầu vào mà chưa gắn với chất lượng, thương hiệu của từng trường. Việc xã hội hóa và liên doanh, liên kết chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, nhiều văn bản pháp lý chưa thay đổi kịp thời để hỗ trợ các trường thực hiện tự chủ.
- Nền tảng đào tạo đại học, nghiên cứu khoa học, kinh nghiệm quản lý tài chính trong điều kiện thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của nhiều trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương còn hạn chế. Công cụ quan trọng trong quản lý tài chính là kế toán, kiểm soát nội bộ vẫn chưa hoàn thiện. Việc tổ chức giám sát, kiểm tra ở hầu hết các trường chủ yếu tập trung vào công tác kế toán tài chính mà chưa quan tâm nhiều đến công tác kế toán quản trị để hỗ trợ nhu cầu thông tin, lập kế hoạch và ra quyết định tài chính.
4. Các nhóm giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính tại các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Công Thương trong điều kiện thực hiện cơ chế tự chủ tài chính
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và các quy định tại Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học ngày 19/11/2018, tác giả đề xuất một số nhóm giải pháp, chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý tài chính tại các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương đến năm 2025 tầm nhìn đến năm 2030, như sau:
4.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện quản lý nguồn thu, mức thu
- Xây dựng khung học phí đa dạng và linh hoạt gắn với kết quả kiểm định chất lượng, xếp hạng trường đại học. Đồng thời, quy định thu học phí theo 4 mức độ tự chủ tài chính: Tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; tự bảo đảm chi thường xuyên; tự bảo đảm một phần chi thường xuyên; Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên. Cùng với việc mở rộng quyền tự chủ về mức thu học phí cho các trường ĐHCL, chính sách hỗ trợ tài chính sinh viên cần được thiết kế lại nhằm bảo đảm mức vay hoặc hỗ trợ tài chính cho sinh viên trang trải học phí, chi phí sinh hoạt học tập.
- Nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học để nâng cao uy tín và thương hiệu của các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương - cơ sở để các trường tăng nguồn thu sự nghiệp.
- Tăng cường huy động nguồn tài chính từ doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân: Hoàn thiện quy định để khuyến khích các doanh nghiệp được tham gia vào quá trình đào tạo, nghiên cứu khoa học; tích cực tìm kiếm, thu hút nguồn lực tài chính từ các dự án, nguồn vốn viện trợ nước ngoài cho đầu tư cơ sở vật chất.
- Nhà nước sớm ban hành hướng dẫn thực hiện liên doanh, liên kết, quản lý, sử dụng tài sản công vào mục đích kinh doanh, cho thuê tài sản… nhằm khai thác, sử dụng hiệu quả các tài sản theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học ngày 19/11/2018.
4.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện quản lý sử dụng nguồn tài chính
- Sắp xếp tổ chức lại bộ máy, nhân sự và nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ tiền lương, tiền công. Tiết kiệm các khoản chi hành chính, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học.
- Tăng cường phân cấp quản lý tài chính cho các đơn vị thuộc, trực thuộc trường, thực hiện cơ chế khoán chi thường xuyên (chi thanh toán cá nhân, chi nghiệp vụ chuyên môn,...) để các đơn vị chủ động thực hiện nhiệm vụ và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính.
4.3. Nhóm giải pháp hoàn thiện quản lý kết quả tài chính trong năm và các quỹ
- Cụ thể hóa quy định về trích lập, sử dụng quỹ theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học ngày 19/11/2018.
- Đổi mới nội dung, phương pháp đánh giá công chức, viên chức và người lao động: Xây dựng tiêu chí đánh giá theo tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm để làm căn cứ chi trả tiền lương, tiền công; áp dụng cơ chế lương đặc thù để thu hút các giảng viên, chuyên gia giỏi.
4.4. Nhóm giải pháp hoàn thiện công cụ quản lý tài chính
- Hoàn thiện quy định, quy chế tài chính nội bộ của từng trường, sao cho phù hợp với Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học ngày 19/11/2018, Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thu - chi tài chính; xây dựng hệ thống kế toán bao gồm kế toán tài chính và kế toán quản trị.
- Nâng cao trách nhiệm giải trình của các trường đối với sinh viên, phụ huynh, người sử dụng lao động và cơ quan quản lý nhà nước. Trách nhiệm này, bao gồm: việc đảm bảo chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính. Nhà nước cần xây dựng cơ sở dữ liệu công khai, minh bạch về GDĐH cho phép các bên liên quan có thể tiếp cận và đánh giá.
- Nâng cao vai trò, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của Hội đồng trường thông qua một số giải pháp sau: Đảm bảo cho Hội đồng trường thực hiện tốt chức năng quản trị đại học, giám sát điều hành, quản lý các hoạt động của Ban Giám hiệu; Xây dựng bộ phận giúp việc độc lập cho Hội đồng trường, sử dụng tư vấn độc lập bên ngoài cung cấp thông tin cho Hội đồng trường; Ban hành văn bản cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng trường theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học ngày 19/11/2018, Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ.
5. Kết luận
Tự chủ tài chính đóng vai trò nền tảng để thực hiện hiệu quả và bền vững các nội dung khác của tự chủ đại học. Trong đó, hoàn thiện quản lý tài chính đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình thực hiện tự chủ tài chính. Đây là vấn đề then chốt, nhằm đảm bảo quá trình tự chủ, tự chịu trách nhiệm được thực hiện đầy đủ, khách quan và minh bạch.
Đối với các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương, quá trình thực hiện tự chủ tài chính vẫn còn gặp những khó khăn, thách thức. Nghiên cứu này đã đề xuất các nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý tài chính giúp các trường tăng cường nguồn thu ngoài NSNN, xác định mức thu hợp lý; xác định nội dung chi, mức chi thích hợp; trích lập và sử dụng hiệu quả các quỹ để chi trả thu nhập cho người lao động, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển tại các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Báo cáo kết quả đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ.
- Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở GDĐH công lập giai đoạn 2014-2017.
- Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 quy định cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015-2016 đến năm học 2020-2021.
- Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2019), Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục đại học.
- Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học ngày 19/11/2018.
The financial management of public universities under the Ministry of Industry and Trade in the context of implementing the financial autonomy: Current status and Solutions
Master. Nguyen Dong Anh Xuan
Hanoi University of Industry
Ph.D Nguyen Van Thien
Hanoi University of Industry
ABSTRACT:
As the competition in the higher education field is increasing while the state budget for higher education investment is limited, it is an urgent task for public universities in Vietnam in general and universities under the Ministry of Industry and Trade (MoIT) in particular to increasingly mobilize and efficiently use financial resources to growth sustainably. This article focuses on analyzing the current status of financial management at public universities under the MoIT in terms of implementing financial autonomy and highlighting achivements, limitations, shortcomings and causes, thereby proposing a number of solutions to perfect the financial management of public universities under the MoIT in the coming time.
Keywords: Financial management, financial autonomy mechanism, public universities, Ministry of Industry and Trade.