TÓM TẮT:
Nghiên cứu này nhằm xác định tác động của việc sử dụng công cụ kế toán quản trị Quản lý chất lượng toàn diện (TQM) và công tác Quản trị chuỗi cung ứng (SCM) đối với hiệu suất hoạt động tại các doanh nghiệp thương mại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu này là phương pháp định lượng bằng cách phân phối trực tiếp các bảng câu hỏi đến từng doanh nghiệp thương mại. Có 150 người trả lời là chủ doanh nghiệp và người quản lý. Thang đo được sử dụng là thang đo Likert 5, trong đó câu trả lời của người trả lời có trọng số điểm: 1 = hoàn toàn không đồng ý, 2 = không đồng ý, 3 = trung lập, 4 = đồng ý và 5 = hoàn toàn đồng ý. Phân tích dữ liệu nghiên cứu này sử dụng phương pháp SEM sử dụng PLS, được kiểm tra bằng công cụ Smart PLS 3.2.9. Nghiên cứu này phát hiện ra rằng việc triển khai TQM và SCM có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu suất hoạt động.
Từ khóa: Quản lý chất lượng toàn diện (TQM), Quản trị chuỗi cung ứng (SCM), hiệu suất hoạt động, doanh nghiệp thương mại, TP. Hồ Chí Minh.
1. Đặt vấn đề
Hiệu suất hoạt động của một công ty là khả năng của một công ty trong việc cung cấp sản phẩm tới khách hàng. Các công ty cần một hệ thống quản lý hiệu quả để hỗ trợ cải tiến liên tục thông qua công cụ kế toán quản trị Quản lý chất lượng toàn diện (TQM). TQM là một phương pháp tích hợp để đạt được và duy trì đầu ra chất lượng cao, tập trung vào bảo trì, cải tiến liên tục và ngăn ngừa thất bại ở mọi cấp độ và chức năng của công ty nhằm đáp ứng hoặc vượt quá mong đợi của người tiêu dùng. Các công ty triển khai điều này để tồn tại lâu dài.

Ngoài ra, các công ty cần triển khai Quản lý chuỗi cung ứng (SCM) hoặc quản lý chuỗi cung ứng một cách tối ưu. Theo Attia (2016), quản lý chuỗi cung ứng tích hợp các quy trình kinh doanh quan trọng trong toàn bộ chuỗi cung ứng để tạo ra giá trị cho khách hàng và các bên liên quan. SCM là xương sống của công ty, cho phép công ty hiểu được nhu cầu của người tiêu dùng một cách nhạy bén. Nghiên cứu này tập trung vào các công ty hoạt động trong lĩnh vực thương mại tại Thành phố Hồ Chí Minh, vì đây là trung tâm kinh tế lớn nhất của Việt Nam.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Các nghiên cứu về sử dụng công cụ kế toán quản trị Quản lý chất lượng toàn diện (Total Quality Management, TQM) đến hiệu suất trước đây
Quản lý Chất lượng toàn diện (TQM) là một phương pháp quản lý được hình thành vào những năm 1950 nhằm tìm kiếm các nguồn cải tiến liên tục để nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Trong nghiên cứu của Sanjaya Sharma và Sachin Modgil (2020), việc đo lường TQM chỉ xem xét một số yếu tố thành công của TQM, bao gồm 5 nội yếu tố sau: Sự hỗ trợ của quản lý cấp cao; Tập trung vào khách hàng; Nghiên cứu và phát triển; Chất lượng sản phẩm; Bảo trì toàn diện sản phẩm. Trong khi đó, trong nghiên cứu của Kebede và cộng sự (2021), các chỉ số biến số TQM đối với các câu hỏi cho người tham gia khảo sát bao gồm 4 yếu tố sau: Sự hỗ trợ của quản lý cấp cao; Tập trung vào khách hàng; Trao quyền và sự tham gia của nhân viên; Quản lý chất lượng của nhà cung cấp.
2.2. Các nghiên cứu tác động của Quản trị chuỗi cung ứng đến hiệu suất hoạt động
Quản trị chuỗi cung ứng liên quan đến việc điều phối tất cả các hoạt động để gia tăng giá trị cho khách hàng (Heizer và cộng sự, 2021). Trong nghiên cứu của Sanjaya Sharma và Sachin Modgil (2020), các yếu tố SCM được đánh giá như sau: Quan hệ đối tác chiến lược với nhà cung cấp; Chất lượng thông tin và chia sẻ thông tin; Quản lý tồn kho; Hoạt động mua hàng hoặc thực hành mua sắm.
2.3. Các nghiên cứu về Hiệu suất hoạt động (Operational Performance, OP)
Aripin và cộng sự (2022) cho rằng hiệu suất là mức độ thành công hay đạt được của một hành vi. Hiệu suất được coi là thành công hay được gọi là hiệu suất tốt nếu kết quả đạt được đúng với các mục tiêu đã đặt ra. Có thể kết luận, hiệu suất hoạt động là kết quả của các hoạt động vận hành của doanh nghiệp, trong đó các hoạt động đầu vào và đầu ra được đo lường dựa trên các tiêu chuẩn thành công đã được xác định theo mục tiêu của doanh nghiệp. Nghiên cứu của Shaikh, S. S., Huaming, S., và Ameer, M. S. (2023) đã chọn ra một số chỉ số để đánh giá hiệu suất hoạt động, cụ thể là: Hiệu quả về chi phí; Sự đổi mới; Lỗi sản phẩm; Tồn kho; Giao hàng hóa; Sử dụng năng lực.
2.4. Giả thuyết nghiên cứu
Vận dụng công cụ TQM là một phương pháp tiếp cận với trọng tâm hướng đến khách hàng, luôn nỗ lực đáp ứng nhu cầu của khách hàng thông qua cải tiến liên tục, trong khi SCM tập trung vào dòng chảy hiệu quả của nguyên liệu thô thành sản phẩm hoàn thiện từ nhà cung cấp đến người tiêu dùng. Cả TQM và SCM đều ưu tiên sự hài lòng của khách hàng (Vanichchinchai, 2019). Trong một nghiên cứu trước đây của Shaikh và cộng sự (2022), các phát hiện cho thấy công cụ kế toán quản trị TQM là công cụ rất quan trọng để cải thiện hiệu suất logistics và chuỗi cung ứng trong các doanh nghiệp và vận dụng công cụ TQM một các hiệu quả giúp sẽ giúp các doanh nghiệp nâng cao hoạt động chuỗi cung ứng của doanh nghiệp. Do đó, các giả thuyết sau được tác giả đề xuất:
H.1 - Việc sử dụng công cụ kế toán quản trị TQM có ảnh hưởng tích cực đến việc tổ chức thực hiện SCM của các doanh nghiệp thương mại.
Các hoạt động chuỗi cung ứng tạo ra các liên minh với các bên liên quan để đạt được kết quả hoạt động tối ưu. Trong một nghiên cứu của Cahyono và cộng sự (2023), việc tổ chức hoạt động SCM được coi là có tính hợp tác với các đặc điểm và tính linh hoạt. Cách tiếp cận hợp tác này được coi là giúp các doanh nghiệp thương mại đáp ứng nhu cầu tiêu dùng linh hoạt và tối đa hóa hiệu quả trong chuỗi cung ứng, dẫn đến hiệu suất hoạt động cao nhất. Vì vậy, giả thuyết sau đây được tác giả đề xuất:
H.2 - Việc tổ chức thực hiện SCM có ảnh hưởng tích cực đến hiệu suất hoạt động của các doanh nghiệp thương mại.
Việc vận dụng công cụ kế toán quản trị TQM một các hiệu quả có thể nâng cao sự hài lòng của khách hàng và cải thiện năng suất kinh doanh (Nasim, 2018). Trong một nghiên cứu trước đó, Chen (2015) đã chứng minh rằng cách tiếp cận TQM ảnh hưởng tích cực đến hiệu suất hoạt động. Kết quả của một nghiên cứu do Kebede Adem Virdi (2021) thực hiện cho thấy tất cả các thực hành TQM đều tác động tích cực đến hiệu suất hoạt động. Tác giả nhằm nghiên cứu tác động của việc sử dụng công cụ kế toán quản trị TQM đến hiệu suất hoạt động của các doanh nghiệp thương mại trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, giả thuyết sau đây được tác giả đề xuất:
H.3 - Sử dụng công cụ kế toán quản trị TQM có ảnh hưởng tích cực đến hiệu suất hoạt động của các doanh nghiệp thương mại.
3. Phương pháp nghiên cứu
Việc kiểm định giả thuyết trong nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng. Phương pháp kiểm định được sử dụng trong nghiên cứu này là Mô hình phương trình cấu trúc bình phương nhỏ nhất từng phần (PLS-SEM). Phần mềm được sử dụng để kiểm định là SmartPLS 3.29. Nghiên cứu này thu thập dữ liệu từ 150 người trả lời. Cỡ mẫu trong nghiên cứu này được xác định bằng cách sử dụng công thức là 5 nhân với số chỉ số nghiên cứu, được đề xuất bởi Hair và cộng sự (2010). Nghiên cứu này đã phát bảng câu hỏi đến các nhà quản lý, chủ sở hữu của các doanh nghiệp thương mại tại Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Kiểm tra giá trị hội tụ
Mục đích của kiểm tra giá trị hội tụ là để xác định liệu kết quả thu được trong nghiên cứu có hội tụ hay không. Theo Hair et al. (2017), quá trình kiểm tra giá trị hội tụ cần chú ý đến giá trị Outer Loading và Average Variance Extracted (AVE). Nghiên cứu được coi là hợp lệ nếu giá trị Outer Loading ≥0,50 và giá trị AVE ≥0,50. Kết quả của kiểm tra giá trị hội tụ đối với Outer Loading có thể được thấy trong Bảng 1.
Bảng 1. Outer Loading Indicator

Nguồn: Tác giả
Dựa trên Bảng 1, có thể nhận thấy kết quả của kiểm tra giá trị hội tụ đối với Outer Loading trên đã được công nhận là hợp lệ vì tất cả các giá trị trong các chỉ số được liệt kê đều trên 0,50. Trong quá trình các kiểm tra giá trị trên, có 5 chỉ số cần phải loại bỏ vì chúng làm cho dữ liệu tổng thể trở nên không hợp lệ. Có 5 chỉ số cần loại bỏ bao gồm TQM 8, TQM 11, SCM 1, SCM 2 và SCM 11. Do đó, 5 chỉ số này sẽ không được phân tích thêm. Hơn nữa, kiểm tra giá trị hội tụ cũng xem xét Average Variance Extracted (AVE). Một biến được coi là hợp lệ trong AVE nếu nó có giá trị lớn hơn 0,50. Kết quả của Average Variance Extracted (AVE) có thể thấy trong Bảng 2.
Bảng 2. Average Variance Extracted (AVE)

Nguồn: Tác giả
Dựa trên kết quả trong Bảng 2, có thể nhận thấy tất cả các biến đều có giá trị AVE lớn hơn 0,50. Do đó, tất cả các biến có thể được coi là hợp lệ hoặc có giá trị hội tụ tốt.
4.2. Kiểm tra giá trị phân biệt
Kiểm tra giá trị phân biệt sử dụng Tiêu chí Fornell-Larcker, theo đó căn bậc hai của AVE phải lớn hơn căn bậc hai của từng cấu trúc. Giá trị phân biệt được coi là hợp lệ nếu tất cả các biến tạo thành một đường chéo, và các giá trị ở trên phải lớn hơn các giá trị của các biến ở dưới. Kết quả của kiểm tra giá trị phân biệt có thể thấy trong Bảng 3.
Bảng 3. Kiểm định Giá trị Phân biệt

Nguồn: Tác giả
Dựa trên Bảng 3, có thể nhận thấy kết quả xử lý dữ liệu kiểm tra giá trị phân biệt chỉ ra tính hợp lệ tổng thể tốt cho tất cả các biến nghiên cứu. Điều này được chứng minh bởi việc căn bậc hai của giá trị AVE lớn hơn các giá trị của các biến ở dưới chúng.
4.3. Kiểm tra độ tin cậy
Trong nghiên cứu này, kiểm tra độ tin cậy có thể được đo bằng hệ số Cronbach's Alpha (CA) và Composite Reliability (CR). Các biến được coi là đáng tin cậy khi giá trị của Cronbach's Alpha (CA) và Composite Reliability (CR) lớn hơn 0,70. Kết quả của kiểm tra độ tin cậy được tóm tắt trong Bảng 4.
Bảng 4. Kiểm định Độ tin cậy

Nguồn: Tác giả
Bảng 4 trên cho thấy tất cả các biến nghiên cứu đều có giá trị Cronbach's Alpha (CA) và Composite Reliability (CR) vượt quá 0,70. Do đó, ta kết luận các biến TQM, SCM và hiệu suất hoạt động trong nghiên cứu này là đáng tin cậy.
4.4. Kiểm tra giả thuyết
Kiểm tra giả thuyết trong nghiên cứu này dựa trên giá trị P và giá trị T sử dụng mức alpha 5%. Trong bối cảnh này, các giá trị chuẩn là P-Value ≤ 0,50 và T-Value ≥ 1,96. Kết quả của kiểm tra hệ số đường dẫn được liệt kê trong Bảng 5.
Bảng 5. Kiểm định Giả thuyết

Nguồn: Tác giả
Dựa trên Bảng 5, có thể nhận thấy kết quả kiểm tra ba giả thuyết nghiên cứu cho thấy tất cả các giả thuyết đều được hỗ trợ và có ý nghĩa tích cực. Kết quả kiểm tra H1 có giá trị T ≥ 1,96, cụ thể là 4,681, giá trị P ≤ 0,50 (0,000), và tác động là 0,934. Do đó, H1 trong nghiên cứu này được hỗ trợ và có ý nghĩa tích cực. Kết quả kiểm tra H2 có giá trị T ≥ 1,96, cụ thể là 3,841 giá trị P ≤ 0,50 (0,001) và tác động là 0,678. Vì vậy, H2 trong nghiên cứu này được hỗ trợ và có ý nghĩa tích cực. Kết quả kiểm tra H3 có giá trị T ≥ 1,96, cụ thể là 2,816, giá trị P ≤ 0,50 (0,000), và tác động là 0,459. Do đó, H3 trong nghiên cứu này được hỗ trợ và có ý nghĩa tích cực.
5. Hạn chế của nghiên cứu
Kết quả của nghiên cứu này có giá trị đối với các doanh nghiệp thương mại như là tài liệu tham khảo và phát triển liên quan đến việc triển khai TQM và SCM để đạt được hiệu suất hoạt động tốt, vì đây là lĩnh vực chưa được nghiên cứu nhiều. Thực tế, việc áp dụng TQM, SCM và hiệu suất hoạt động thường chỉ được xem xét ở các công ty sản xuất, không phải là các doanh nghiệp thương mại. Kết quả của nghiên cứu này cũng mang lại những lợi ích tiềm năng cho các doanh nghiệp thương mại. Từ góc độ quản lý, nghiên cứu này khuyến khích các doanh nghiệp thương mại cải thiện công tác quản lý hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại của họ, đặc biệt là trong việc sử dụng công cụ kế toán quản trị TQM và SCM, để hiệu suất hoạt động của doanh nghiệp thương mại có thể vận hành tốt.
6. Kết luận
Các nhà nghiên cứu đưa ra một số đề xuất để cải thiện trong các nghiên cứu tiếp theo. Từ nghiên cứu này, với đối tượng là các doanh nghiệp thương mại trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, các nghiên cứu trong tương lai nên mở rộng phạm vi nghiên cứu ra các khu vực khác ở Việt Nam. Ngoài phạm vi nghiên cứu, ngành nghiên cứu sử dụng công cụ kế toán quản trị TQM và SCM để nâng cao hiệu suất hoạt động trong các lĩnh vực khác như các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc các ngành công nghiệp khác. Ví dụ, có thể nghiên cứu trong các lĩnh vực như logistics, may mặc và các ngành khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Aripin, Jayadi, & Yani, A. (2022). Total Quality Management and Supply Chain Integration on Firm Performance: A Study of Cosmetic Industry in Jakarta. European Journal of Science, Innovation and Technology, 2(4), 90-99.
- Attia, A.M. (2016). Effect of Quality Management on Supply Chain and Organisational Performance in Egyptian Textile Industry. International Business Performance Management, 17 (2), 198-222.
- Butterworth-Heinemann. Vanichchinchai, A. (2019). Acategorisation of quality management and supply chain management frameworks. In Cogent Business and Management (Vol. 6, Issue 1). Cogent OA. https://doi.org/10.1080/23311975.2019.1647594
- Cahyono, Y., Purwoko, D., Koho, I. R., Setiani, A., Supendi, Setyoko, P. I., Sosiady, M., & Wijoyo, H. (2023). The role of supply chain management practices on competitive advantage and performance of halal agroindustry SMEs. Uncertain Supply Chain Management, 11(1), 153-160. https://doi.org/10.5267/j.uscm.2022.10.012
- Chen, Z. (2015). The Relationship Among JIT, TQM, and Production Operations Performance: An Empirical Study From Chinese Manufacturing Firms. Business Process Management Journal, 21(5), 1015-1039
- Hair, J. F., Hult, G. T. M., Ringle, C. M., & Sarstedt, Marko. (n.d.). (2017). A primer on partial least squares structural equation modelling (PLS -SEM). Second Edition. SAGE Publications, Inc Hartono. (2011). SPSS 16.0 Analisis Data Statistika dan Penelitian. Yogyakarta: Pustaka Belajar
- Heizer, J., Render, B., & Munson, (2021). Operations management: sustainability and supply chain management
- Kebede Adem, M., & Virdi, S. S. (2021). The effect of TQM practices on operational performance: an empirical analysis of Ethiopia's ISO 9001: 2008 certified manufacturing organisations. TQM Journal, 33 (2), 407 - 440. https://doi.org/10.1108/TQM - 03 - 2019 - 0076 Kristof -
- Sharma, S., & Modgil, S. (2020). TQM, SCM and operational performance: an empirical study of Indian pharmaceutical industry. Business Process Management Journal, 26 (1), 331-370. https://doi.org/10.1108/BPMJ -01-2018-0005
IMPACTS OF USING MANAGEMENT ACCOUNTING TOOLS FOR TOTAL QUALITY MANAGEMENT AND SUPPLY CHAIN MANAGEMENT ON THE PERFORMANCE OF TRADING ENTERPRISES IN HO CHI MINH CITY, VIETNAM
Le Quang Man
University of Finance and Marketing
Abstract:
This study examines the influence of Total Quality Management (TQM) management accounting tools and Supply Chain Management (SCM) practices on the operational performance of commercial enterprises in Ho Chi Minh City. A quantitative research approach was adopted, with data collected through questionnaires distributed to 150 business owners and managers. Responses were measured using a 5-point Likert scale, ranging from 1 (strongly disagree) to 5 (strongly agree). Data analysis employed Structural Equation Modeling (SEM) using the Smart PLS 3.2.9 tool. The findings reveal that both TQM and SCM practices significantly enhance operational performance, underscoring their critical role in improving enterprise efficiency.
Keywords: Total Quality Management (TQM), Supply Chain Management (SCM), operational performance, trading enterprise, Ho Chi Minh City.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 23 tháng 21 năm 2024]