Thâm hụt ngân sách, theo BMI, đã giảm từ 7,2% của tổng GDP năm 2002 xuống còn 5% vào năm 2003. Việt Nam đang ở trong quá trình chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp. Năm 2005, khu vực nông nghiệp chỉ tăng 4%, trong lúc khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng 10,6% và 8,5%. Theo số liệu của BMI, hai khu vực này chiếm 80% nền kinh tế Việt Nam hiện nay, trong lúc nông nghiệp chỉ còn chiếm 20%.
Tuy nhiên, nhiều trở ngại về cơ cấu sản phẩm vẫn còn tồn tại. Đầu tiên, việc chưa gia nhập WTO năm 2005 đã không giúp cho tăng trưởng các mặt hàng xuất khẩu. Ngay cả sau khi trở thành thành viên WTO, nếu Việt Nam buộc phải bỏ ưu đãi thuế cho các công ty sản xuất hàng xuất khẩu và hạn chế xuất khẩu dệt may thì lợi ích của việc gia nhập WTO có thể ít hơn là dự đoán. Một rủi ro khác cho viễn cảnh tăng trưởng là tiến độ cải cách chậm chạp trong khu vực ngân hàng, dẫn đến nguy cơ gia tăng các khoản nợ xấu. Tuy vậy, BMI cho rằng việc tăng thị phần của các ngân hàng nước ngoài có thể làm tăng tốc cải tổ và khiến ngân hàng trong nước đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
Trong báo cáo về từng quốc gia, BMI bao giờ cũng đưa ra bảng đánh giá về độ rủi ro kinh tế (Economic Risk Ratings), xếp hạng khả năng của một nước trong việc đảm bảo môi trường để các công ty duy trì lợi nhuận và phát triển.
Trong báo cáo quý hai này, về ngắn hạn, BMI cho Việt Nam 62 điểm, xếp thứ 66, đứng trên các nước châu Á khác là Pakistan, Campuchia, Philippines, Sri Lanka, Lào và Bangladesh (xếp thứ 123). Trong bảng xếp hạng về rủi ro ngắn hạn này, các nước châu Á đứng trên Việt Nam là Trung Quốc (điểm cao nhất 90, xếp thứ nhất), Singapore (5), Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, Malaysia, Thái Lan, Ấn Độ, Úc và Indonesia.
Trong khi đó, về dài hạn, danh sách của BMI cho Việt Nam 54,8 điểm, xếp thứ 70, ngang Philippines. Đáng chú ý là khi nói về ổn định dài hạn, BMI lại có đánh giá cao hơn dành cho các nước như Bangladesh (hạng 64), Pakistan, (63), Indonesia (43), Thái Lan (34), Trung Quốc (10), Malaysia (8), Singapore (1).