Qua 29 năm xây dựng và phát triển. Công ty liên tục hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch hàng năm; Bóc xúc và vận chuyển trên 94 triệu m3 đất đá; khai thác hơn 15 triệu tấn than nguyên khai, tiêu thụ trên 14 triệu tấn than các loại, doanh thu đạt trên 2.435 tỷ đồng, làm tròn nghĩa vụ thuế với Nhà nước, đảm bảo có lãi, bảo toàn vốn để phát triển sản xuất, đời sống CNVC không ngừng được nâng cao.
Trong những năm từ 1997 đến 2002, mặc dù có nhiều khó khăn, các thiết bị sản xuất đã xuống cấp, khai thác ngày càng xuống sâu, hệ số bóc cao (trên 6,2 m3/tấn); nhưng Công ty luôn hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch được Tổng công ty Than Việt Nam giao, năm sau cao hơn năm trước từ 18-30%; Bóc xúc, vận chuyển trên 36 triệu m3, đất, khai thác 6,5 triệu tấn than, tiêu thụ trên 6,2 triệu tấn than các loại, doanh thu đạt trên 1.264 tỷ đồng, bằng gần 50% sản lượng của 23 năm cộng lại (1974-2002). Đặc biệt năm 2002, đã đạt được sản lượng kỷ lục mới: Bóc xúc, vận chuyển gần 10 triệu m3 đất đá, khai thác trên 1,4 triệu tấn than bằng 5 năm (1991-1995) cộng lại, trong đó chỉ tỉnh riêng tháng 10/2002, đã bóc xúc, vận chuyển 1.130.000 m3 đất dá, nhiều đơn vị, tổ xe máy hoàn thành sớm kế hoạch năm vào dịp 12/11, nhiều tổ xe máy đạt năng suất kỷ lục cao của TVN được tuyên dương, khen thưởng như: Tổ máy xúc EKG 8? Số 6 đạt năng suất 1.220.000 m3 đất đá/năm, 05 tổ xe ôtô Benlaz vận chuyển trên 550.000 Tkm/năm.
Đạt được những kết quả trên là do lãnh đạo Công ty luôn quan tâm đổi mới phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo, đổi mới cơ chế quản lý và điều hành sản xuất như đã xây dựng các phương án chất lượng dài hạn, ngắn hạn trong lĩnh vực kỹ thuật khai thác, dự báo tài nguyên, tiếp cận thị trường, từ đó đề ra kế hoạch và các giải pháp tổ chức sản xuất hợp lý, tăng cường các biện pháp khoan nổ mìn, cấp đủ đất đá bắn tơi, củng cố, nâng cấp các tuyến đường vận chuyển; quan tâm đầu tư sửa chữa, gia công phục hồi thiết bị đáp ứng mọi yêu cầu phục vụ sản xuất, nâng cao số lượng và giờ xe hoạt động có năng suất cao.
Công tác an toàn – BHLĐ, PCCN được thường xuyên quan tâm tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, CNVC, phải gắn phương án tổ chức sản xuất với các biện pháp thực hiện nghiêm công tác an toàn – BHLĐ và coi đó là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu. Bên cạnh việc tổ chức các hoạt động thi đua lao động sản xuất giỏi, Công ty luôn quan tâm đổi mới cơ chế quản lý đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tiết kiệm chi phí và xác định đây là mục tiêu sống còn của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Với phương châm chỉ đạo: “Thi đua phát huy nội lực, mở rộng quan hệ hợp tác, lao động sáng tạo, xây dựng Công ty Than Cao Sơn phát triển ổn định và bền vững”.
Trong những năm qua, Công ty đã nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh các quy chế định mức, giao khoán chi phí, khoán sản phẩm đến từng đơn vị, tổ chức sản xuất và người lao động, đồng thời ban hành kèm theo các quy chế thưởng, phạt đảm bảo dân chủ, công khai đã tạo sự yên tâm, phấn khởi trong đội ngũ CNVC, phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo trong sản xuất.
Một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển là phong trào thi đua phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất của hàng ngàn CBCNV, đã tìm ra nhiều giải pháp hay, cách làm hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất, làm lợi cho Công ty hàng trăm tỷ đồng. Từ năm 1997-2002, đã có 1.781 sáng kiến với giá trị làm lợi gần 30 tỷ đồng, 35 người vinh dự được Tổng LĐLĐ Việt Nam tặng Bằng lao động sáng tạo; tiêu biểu là Giám đốc Công ty Lê Đình Trưởng, người có nhiều sáng kiến, giá trị làm lợi hàng chục tỷ đồng, 10 năm liền được Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam cấp bằng lao động sáng tạo.
Thực tiễn sản xuất kinh doanh những năm qua đã chứng minh tính đúng đắn, phù hợp và hiệu quả của các Quy chế, những giải pháp sáng kiến cải tiến kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất: Tỷ lệ âm đất đá từ –5 đến –7% năm 1997 đã giảm xuống còn –1,2% năm 2002; Số xe hoạt động từ 110-130 ca xe/ngày năm 1997 đã tăng lên 215 đến 230 ca xe/ngày năm 2002, quý I/2003 tiếp tục tăng lên 270 ca xe/ngày, sản lượng bóc đất đạt 15.000 đến 18.000 m3/ngày đã tăng lên trên 40.000 m3/ngày năm 2002; Đặc biệt, quý I năm 2003 đã đạt sản lượng kỷ lục trên 50.000 m3/ngày; tiêu thụ vật tư, nhiên liệu của các đơn vị thấp hơn so với định mức công ty giao, giá trị làm lợi từ tiết kiệm được hàng tỷ đồng.
Với quan điểm chỉ đão xuyên suốt: SXKD có hiệu quả phải gắn liền với việc quan tâm chăm lo mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Chính vì lẽ đó, những năm qua, Công ty đã tạo đủ việc làm cho gần 4.000 CNVC có thu nhập ổn định bình quân từ 900.000 đ/người/tháng đến 1 triệu đồng/người/tháng (những năm 1997, 1998, 1999, 2000); năm 2001 đạt 1.280.000 đ/người/tháng; năm 2002 đạt 1.500.000 đ/người/tháng, đời sống, sức khoẻ của người lao động ngày càng được quan tâm và nâng cao về mọi mặt. Công tác bảo vệ môi trường thường xuyên được quan tâm như tăng cường trồng cây xanh, tưới nước dập dụi, chống ồn, quy hoạch và đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi, văn hoá thể thao, khu quần thể khuôn viên văn phòng, đã được công đoàn Bộ Công nghiệp gắn liền “Công trình chào mừng 70 năm thành lập Công đoàn Việt Nam” đổ đất tạo vành đai bảo vệ thảm thực vật Vịnh Bái Tử Long kết hợp với đổ đất lấn biển xây dựng nhà cho CNVC với phương châm “Công nhân và Công ty cùng góp vốn xây dựng” hình thành lên các dãy phố cao tầng của những người thợ mỏ Cao Sơn khang trang, sạch đẹp. Cùng với việc đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, văn nghệ – TDTT thu hú mọi đối tượng tham gia sau mỗi ngày lao động mệt nhọc, phối hợp với địa phương thực hiện tốt phong trào cộng quản, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản, tài nguyên ranh giới Mỏ, kiên quyết đấu tranh đẩy lùi các tệ nạn xã hội, xây dựng khu tập thể văn minh, xây dựng gia đình Công nhân văn hóa mới, xây dựng khu Cao Sơn trở thành khu văn hóa. Đồng thời, Công ty đã tổ chức thực hiện tốt chính sách xã hội và chính sách hậu phương quân đội, tham gia tích cực các phong trào xóa đói, giảm nghèo, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa…
Với những thành tích đạt được trong những năm qua, cán bộ, đảng viên, CNVC Công ty Than Cao Sơn vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng nhất (năm 2000); Thủ tướng Chính phủ tặng cờ thi đua xuất sắc cho đơn vị dẫn đầu ngành Than năm 1999.
Năm 2001, Đảng bộ Công ty được Tỉnh uỷ Quảng Ninh tặng cờ Đảng bộ trong sạch, vững mạnh xuất sắc 3 năm liền (1998-2000); được BCH Đảng bộ Than Quảng Ninh tặng cờ cho Đơn vị thực hiện xuất sắc trong công tác tư tưởng của Đảng thời kỳ đổi mới (19986-2002); và Bằng khen cho Đảng bộ trong sạch, vững mạnh xuất sắc 2 năm liền (2001-2002).
Các tổ chức đoàn thể quần chúng liên tục đạt danh hiệu vững mạnh xuất sắc, được các cấp, cá ban ngành TW, địa phương tặng nhiều cờ và bằng khen.
Năm 2003, Công ty Than Cao SƠn đang ra sức thi đua lao động sản xuất giỏi, lập nhiều kỷ lục cao hơn nữa quyết tâm thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kế hoạch SXKD Tổng công ty Than Việt Nam giao: Bóc xúc 15 triệu m3 đất đá, kahi thác 1,5 triệu tấn than, là kỷ lục cao nhất về năng suất và sản lượng. Đây chính là niềm vinh dự, nhưng cũng là những thách thức mới của tập thể CBCN Công ty Than Cao Sơn, với truyền thống “đoàn kết, kỷ luật và đồng tâm” những người thợ Mỏ Cao Sơn đang chuyển mình vươn lên thực hiện hoàn thành thắng lợi các chỉ tiêu kế hoạch năm 2003, đưa vị thế Công ty Than Cao Sơn lên những tầm cao mới, phát triển ổn định và bền vững trong thời kỳ đổi mới./.