Đặc biệt, sau khi triển khai thực hiện Hợp phần sản xuất sạch hơn (CPI), Thái Nguyên đã đạt được kết quả khả quan, đây chính là nền tảng vững chắc để tiếp tục đưa các chương trình mục tiêu quốc gia hoạt động ngày càng hiệu quả. Để tiếp sức cho doanh nghiệp (DN) triển khai các dự án trình diễn, đặc biệt các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V), các làng nghề, cơ sở sản xuất cùng chung tay bảo vệ môi trường, tỉnh Thái Nguyên đã xây dựng kế hoạch hành động từ nay đến 2013, phấn đấu 30% DN được áp dụng sản xuất sạch hơn (SXSH), góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở mức 12-14%/năm, trong đó công nghiệp chiếm 45% về cơ cấu kinh tế.
Thực trạng môi trường các khu công nghiệp
Bên cạnh những đóng góp rất to lớn của ngành công nghiệp vào GDP của Tỉnh là những thiệt hại không nhỏ về môi trường do sản xuất công nghiệp gây ra. Theo số liệu điều tra của Sở Tài Nguyên và Môi trường Thái Nguyên, tại một số cơ sở sản xuất công nghiệp, mỗi năm ước tính thải ra khoảng 1tỷ m3 khí và hàng nghìn tấn bụi các loại, hàng trăm nghìn tấn chất thải rắn... Điều tra tại 20 DN khai thác chế biến khoáng sản hàng năm thải vào môi trường khoảng 450 triệu m3 khí thải; 16 DN sản xuất vật liệu xây dựng tập trung hàng năm thải vào môi trường trên 200 triệu m3 khí thải, 160.000m3 nước thải, 150.668,4 tấn chất thải rắn; 14 DN cơ khí chế tạo hàng năm thải vào môi trường trên 150 triệu m3 khí thải... Đặc biệt, trong số các cơ sở sản xuất công nghiệp và các khu công nghiệp, hiện có khoảng 80% số cơ sở chưa có trạm xử lý nước thải và hệ thống kỹ thuật hạ tầng đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường. Hiện, chỉ có khu công nghiệp Sông Công có thiết kế quy hoạch chi tiết hệ thống kỹ thuật BVMT như hệ thống thoát nước bề mặt, hệ thống thu gom và xử lý nước thải riêng của từng nhà máy, hệ thống thu gom và xử lý nước thải tập trung…
Bên cạnh đó, việc chấp hành các quy định pháp luật BVMT tại các cơ sở sản xuất công nghiệp còn mang tính hình thức, đối phó, nhiều biện pháp BVMT không được thực thi hoặc không hiệu quả, nên hầu hết các chất thải đều chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra ngoài; các hoạt động khai thác, vận chuyển khoáng sản cũng đã và đang gây suy giảm môi trường sinh thái và làm xuống cấp các công trình giao thông và ô nhiễm môi trường không khí.
Có thể nhận thấy, công tác BVMT ở Thái Nguyên chưa thực sự trở thành phong trào tự giác của quần chúng. Công tác kiểm tra chấp hành Luật BVMT trong các cơ sở SXKD chưa thường xuyên, tích cực, các chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về BVMT chưa đủ mạnh, dẫn đến tình trạng nhiều cơ sở SXKD không thực hiện nghiêm túc các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường theo đúng cam kết, còn mang tính chất đối phó với các cơ quan quản lý nhà nước. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật BVMT còn yếu kém, các cơ sở sản xuất công nghiệp lớn, nhất là cơ sở khai thác chế biến khoáng sản trên địa bàn Tỉnh hầu hết được xây dựng từ những năm 60-70 của thế kỷ trước với công nghệ lạc hậu nên nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao như ở khu công nghiệp Gang thép Thái Nguyên...
Kế hoạch hành động
Dự báo, nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ sản xuất, sinh hoạt gia tăng, tính riêng 3 dự án gồm Khai thác quặng Mỏ sắt Tiến Bộ, Dự án khai thác và chế biến khoáng sản Núi Pháo, Dự án cải tạo mở rộng giai đoạn II Công ty CP Gang thép Thái Nguyên nếu không quản lý chặt chẽ và đồng bộ sẽ gây hiệu ứng môi trường trên địa bàn, cùng với đó là hàng loạt các nhà máy như Nhà máy điện Cao Ngạn công suất 100 MW với 2 tổ máy hoạt động, các nhà máy xi măng La Hiên, Cao Ngạn, Lưu Xá và một số nhà máy xi măng khác đi vào hoạt động sẽ thải vào môi trường không khí hàng năm lên tới 900 tấn bụi, 600 tấn SO2, 700 tấn NO2...
Trước tình hình đó, Thái Nguyên đặt ra mục tiêu giảm nguyên liệu đầu vào (nguyên liệu, năng lượng và nước) 3 - 5%, giảm 5 - 10% tổng lượng phát thải tính trên đơn vị sản phẩm, giảm chất thải trên 5% trong một số công nghiệp nói chung và cụ thể trong một số ngành như ngành luyện kim, khai thác, chế biến khoáng sản và 25% - 30% DN được áp dụng SXSH.
Trong đó, trước hết ưu tiên việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật và quy định tại Tỉnh để thúc đẩy SXSH/BVMT; Xây dựng và vận hành đơn vị hỗ trợ các DNN&V trong Trung tâm Khuyến công và đồng thời xác định các đầu mối hỗ trợ DN thực hiện BVMT; Xây dựng Quy trình đánh kết quả áp dụng SXSH nội bộ DNN&V. Qua đó, đánh giá trình độ công nghệ, hiện trạng môi trường, an toàn, sức khoẻ của các cơ sở sản xuất công nghiệp trong ngành ngành Luyện kim; Khai thác và chế biến khoáng sản… Xây dựng sổ tay hướng dẫn kiểm toán kết hợp SXSH/An toàn/Sức khoẻ và quy trình đánh giá về kết quả áp dụng SXSH nội bộ cho các DNN&V các ngành xản xuất tấm lợp Amiăng xi măng, chế biến ti tan. Cùng với đó, các giải pháp kỹ thuật SXSH cũng được đồng thời triển khai trong các ngành sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến sâu khoáng sản. Đặc biệt để nâng cao nhận thức của cộng đồng,Thái Nguyên đã có kế hoạch tổ chức tham quan học tập các mô hình áp dụng SXSH trong và ngoài Tỉnh; Tổ chức các hội nghị, hội thảo giới thiệu công nghệ sạch, SXSH tại địa phương, tại DN và hỗ trợ DN áp dụng qua một số hình thức (chuyên gia, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ qua hoạt động khuyến công, hỗ trợ đầu tư đổi mới thiết bị, hỗ trợ di dời, đầu tư BVMT...)
Thái Nguyên : Phấn đấu 30% doanh nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn
TCCT
Thực hiện Quyết định 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường (BVMT) trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, các cấp, ngành và nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên đã đồng thuận triển