Dự án thủy điện Sesan 3 có công suất lắp đặt là 273 MW sản lượng điện trung bình là 1127 triệu kWh/năm, được khởi công xây dựng từ năm 2001, dự kiến đưa vào vận hành trong giai đoạn 2006-2007, tổng mức đầu tư được duyệt là 3952,86 tỷ đồng.
Cả 2 dự án đều do Tập đoàn Điện lực Việt Nam là chủ đầu tư và Ban quản lý Dự án Thủy điện 5, Ban Quản lý Dự án thủy điện 4 trực tiếp thực hiện. 2 dự án trên được tiến hành trên cơ sở quyết định số 40/QĐ-TTg ngày 21/3/2003 của Thủ tướng Chính phủ về hiệu chỉnh một số nội dung thuộc quy hoạch phát triển điện lực Việt Nam giai đoạn 2001-2010 có xét triển vọng đến năm 2020 và phù hợp với quy hoạch đã được Bộ Công nghiệp phê duyệt. Khối lượng công việc đã thực hiện ở 2 công trình này về cơ bản đều đảm bảo chất lượng, được Hội đồng nghiệm thu đánh giá tốt. Về hiệu quả đầu tư đối với Dự án Thủy điện Sesan 3 cho thấy, thông qua các chỉ tiêu về kinh tế, Dự án rất có hiệu quả và là một dự án có suất đầu tư cho 1 MW thấp hơn nhiều so với các dự án thuỷ điện khác. Riêng về Dự án thuỷ điện Buôn Tua Srah, do mới khởi công xây dựng từ tháng 11/2004 nên chưa thể đánh giá chính xác được hiệu quả, nhưng thông qua các chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật đã thực hiện có thể thấy, Dự án vẫn đang hướng tới mục tiêu hiệu quả đã đặt ra.
Về tiến độ thi công, sau hơn 18 tháng kể từ ngày khởi công, tiến độ thực hiện Dự án Thủy điện Buôn Tua Srah vẫn đảm bảo đúng tiến độ đặt ra. Riêng Dự án thủy điện Sesan 3, trong từng thời điểm thi công, tiến độ có bị chậm, nhưng Ban quản lý đã có biện pháp khắc phục nên tiến độ thi công chung của Dự án đã đảm bảo được thời gian phát điện quy định. Tổ máy số 1 đã phát điện vượt mốc tiến độ dự kiến, tổ máy số 2 tuy chậm phát điện nhưng đã khởi động không tải trước ngày 30/6/ 2006.
Nhìn chung, theo đánh giá của Tổ công tác, 2 dự án trên về cơ bản đều được tiến hành theo đúng trình tự thủ tục quy định tại Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, ban hành kèm theo Nghị định 52/199/NĐ-CP ngày 08 tháng 7 năm 1999 của Chính phủ. Tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện, các ban quản lý còn có những sai sót nhất định, cần sớm có giải pháp khắc phục. Cụ thể, Dự án thủy điện Buôn Tua Srah được thực hiện theo cơ chế 797/400. Cơ chế này cho phép thi công trước, thiết kế tổng thể và tổng dự toán duyệt sau. Nhưng đến nay sau gần 2 năm thi công, tổng dự toán công trình vẫn chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt, như vậy là quá chậm. Trong công tác đấu thầu còn có thiếu sót như Hồ sơ mời thầu không có bản tiếng Việt (chỉ có bản tiếng Anh) khối lượng thi công ghi trong Hồ sơ mời thầu còn chưa đầy đủ, dẫn đến giá bỏ thầu cao hơn, buộc phải điều chỉnh lại giá gói thầu.
Đối với Dự án Thủy điện Sêsan 3 là công trình thủy điện đầu tiên áp dụng hình thức tổng thầu EPC ở Việt Nam. Đến nay công trình được đánh giá là đảm bảo tiến độ, chất lượng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện còn nhiều bất cập về cơ chế chính sách, thiếu các văn bản hướng dẫn làm cơ sở pháp lý cho các đơn vị thực hiện.
Thông qua việc triển khai thực hiện tổng thầu EPC, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Ban quản lý Thủy điện 4 cần tiến hành tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm, cũng như có kiến nghị cụ thể về cơ chế chính sách bổ sung khi thực hiện tổng thầu EPC. Đối với những tồn tại mà Tập đoàn Điện lực Việt Nam không đủ thẩm quyền giải quyết, cần có kiến nghị cụ thể lên cơ quan có thẩm quyền.