Thị trường chè Thổ Nhĩ Kỳ

Dùng chè làm nước uống được du nhập vào Thổ Nhĩ Kỳ từ thế kỷ thứ năm từ sản phẩm chè Trung Quốc qua các nhà buôn trên con đường tơ lụa Á – Âu, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 6 người Thổ Nhĩ Kỳ mới thực sự c

Tại Thổ Nhĩ Kỳ, cây chè chính thức được canh tác vào năm 1888 tại tỉnh Bursa, đến năm 1917 chè được trồng tại tỉnh Rize – khu vực Biển Đen, nơi có sản lượng lớn nhất của đất nước. Tuy nhiên, việc trồng chè theo đúng luật định được xác định lần đầu tiên vào năm 1924. Cũng vào năm 1924, Viện nghiên cứu phát triển chè Thổ Nhĩ Kỳ được ra đời. Đến năm 1939, việc trồng chè được khuyến khích tại Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1949, nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ chính thức quản lý việc phát triển sản xuất, chế biến và phân phối sản phẩm chè tại nước này.

Để cung cấp dịch vụ tốt hơn song song với việc phát triển ngành chè, năm 1971 một công ty chè được thành lập với tên gọi là “CAYKUR” do nhà nước quản lý độc quyền trong việc kinh doanh chè. Tuy nhiên, đến năm 1984 với sự xóa bỏ độc quyền nhà nước, các công ty tư nhân đã được quyền thu mua, chế biến và tiếp thị chè. Đây được coi là bước ngoặt quan trọng trong việc phát triển ngành chè Thổ Nhĩ Kỳ.

Sản xuất

Ngành chè Thổ Nhĩ Kỳ tuy ra đời muộn so với một số quốc gia khác, nhưng đã phát triển với tốc độ cao. Theo đánh giá của Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực thế giới – FAO, hiện sản xuất chè của Thổ Nhĩ Kỳ chiếm 5% thị phần thế giới, đứng thứ 5 trên thế giới, sau các nước Trung Quốc, Ấn Độ, Kenya và Sri Lanka.

Ở Thổ Nhĩ Kỳ có hơn 200 ngàn hộ gia đình (khoảng 1 triệu người) tham gia vào việc sản xuất và chế biến chè tại khu vực phía Đông Biển Đen, cách bờ biển khoảng 30 km, trên một vùng đất kéo dài với diện tích hơn 700 ngàn ha thuộc địa phận các tỉnh Rize, Ordu, Giresun, Trabzon và Artvin. Thổ nhưỡng và khí hậu khu vực này phù hợp với việc sinh trưởng của cây chè.

Diện tích canh tác chè của Thổ Nhĩ Kỳ tập trung vào 4 tỉnh chính Rize 49.800 ha, chiếm 66% sản lượng chè của Thổ Nhĩ Kỳ; Trabzon 15.500 ha; Artvin 8.600 ha; Giresun 1.900 ha.

Chè được đánh giá là sản phẩm nông nghiệp quan trọng của Thổ Nhĩ Kỳ. Vụ thu hoạch chính diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm với sản lượng chè búp 1 - 1,2 triệu tấn/năm.

Các vườn chè của Thổ Nhĩ Kỳ được gieo trồng bằng các hạt giống. Việc chăm lo cho trồng trọt như ươm giống, nuôi dưỡng, cắt tỉa đến thu hoạch được tiến hành với các phương pháp khoa học kỹ thuật nhằm tạo ra chất lượng chè tốt.

Hiện nay, Công ty chè nhà nước CAYKUR có 46 nhà máy, khả năng sản xuất đạt 6.760 tấn/ngày. 230 nhà máy chế biến còn lại được kiểm soát bởi các doanh nghiệp tư nhân, khả năng sản xuất đạt 8.746 tấn/ngày. Như vậy, khả năng sản xuất, chế biến chè của Thổ Nhĩ Kỳ đạt 15.506 tấn/ngày.

Với gần 300 nhà máy chế biến, sản lượng chè khô hàng năm của Thổ Nhĩ Kỳ đạt trên dưới 200 ngàn tấn, chiếm 6% sản lượng chè khô thế giới. Sản lượng này đủ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Ngành nông nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ đề ra mục tiêu, sản xuất chè tăng trưởng 10 – 12%/năm trong những năm tới, nâng cao năng suất lao động, đa dạng hóa sản phẩm chè (chè hương vị hoa quả, chè lipton…) nhằm cạnh tranh với các nước xuất khẩu chè nổi tiếng trên thế giới.

Bảng: Sản xuất chè của Thổ Nhĩ Kỳ giai đoạn 2008 - 2012

Đơn vị: tấn

Năm

Sản lượng

2008

198.046

2009

198.601

2010

235.000

2011

212.600

2012

215.890

Nguồn: Bộ Kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ

Sản xuất, chế biến chè ở Thổ Nhĩ Kỳ được áp dụng theo các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế như: Tiêu chuẩn chè đen Thổ Nhĩ Kỳ TS 4600, ISO 3720…

Văn hóa uống trà và tiêu thụ

Tại Thổ Nhĩ Kỳ, uống trà là một nét văn hóa khá đặc biệt. Đi đến nơi nào cũng dễ nhận thấy người dân Thổ Nhĩ Kỳ uống trà từ gia đình, quán xá, nhà hàng, khách sạn đến công sở, từ nơi nghèo, bình dân đến những nơi sang trọng, từ sáng đến tối mọi người đều uống trà, tuy nhiên phải là trà truyền thống của Thổ Nhĩ Kỳ.

Trà truyền thống của Thổ Nhĩ Kỳ là trà đen, được pha chế theo kiểu riêng biệt, dụng cụ đun và uống cũng riêng biệt và rất đặc trưng. Để có được một tách trà, người Thổ Nhĩ Kỳ phải pha khá công phu. Họ sử dụng hai chiếc ấm với kích cỡ khác nhau (một to, một nhỏ), chiếc ấm to phải được làm bằng chất liệu kim loại, còn cái ấm nhỏ có thể được làm bằng chất liệu gốm hoặc kim loại.


Để đun trà, trước tiên đổ nước vào ấm to rồi đặt lên bếp, tiếp đến đặt ấm nhỏ lên trên ấm to rồi bỏ trà đen vào ấm nhỏ (không có nước). Đun lửa nhỏ cho đến khi nước trong ấm to sôi và đồng thời trà trong ấm nhỏ cũng ấm lên, tiếp đó đổ nước sôi từ ấm to lên ấm nhỏ. Sau đó, chờ khoảng 15 phút để ngấm trà. Tiếp đến, rót phần trà cốt (từ ấm nhỏ) ra cốc rồi pha với nước sôi trong ấm to. Cách làm này sẽ đáp ứng được sở thích “đậm, nhạt” của từng người uống trong cùng một lần đun trà. Loại trà pha đậm được gọi là “Koyu çay”, còn loại pha nhạt gọi là “Açık çay”.

Người Thổ Nhĩ Kỳ ít uống trà bằng tách thông thường mà bằng một loại cốc thủy tinh truyền thống với kích cỡ nhỏ, hình dáng phình to ở đáy cốc, loe ra ở đầu và thắt nhỏ lại ở phần giữa cốc.

Số liệu điều tra cho thấy, có đến 96% người dân Thổ Nhĩ Kỳ chủ yếu uống trà đen với đường. Dân số trên 75,6 triệu người của nước này mỗi ngày tiêu thụ khoảng 245 triệu tách trà. Xu hướng tiêu dùng chè được gia tăng từ những năm 1970 theo sự phát triển của dân số. Năm 1980 tiêu dùng chè đạt 86.965 tấn, năm 1990 tăng lên 133.000 tấn, năm 1995 là 151.000 tấn, 1998 là 162.300 tấn, năm 2001 là 170.000 tấn, đến nay khoảng 200.000 tấn (tương đương khoảng 2,2 tỷ USD). Tiêu dùng chè bình quân đầu người khoảng 2,1 kg/năm. Trong khi đó, mức này của Anh là 2,5 kg, Ireland 1,5 kg, Marocco 1,4 kg, Iran 1,2 kg.

Xuất khẩu

Ngay từ khi bắt đầu việc trồng chè ở Thổ Nhĩ Kỳ, mục tiêu trước tiên chỉ là đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Đến năm 1963 do việc sản xuất chè bị thiếu, không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng nên Thổ Nhĩ Kỳ đã phải nhập khẩu chè. Sau đó, việc sản xuất được tăng lên, bên cạnh nhu cầu nội địa Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu xuất khẩu chè.

Bảng: Kim ngạch xuất khẩu chè của Thổ Nhĩ Kỳ giai đoạn 2010 - 2012

Số lượng: Tấn; Giá trị: 1.000 USD

Năm

Số lượng

Giá trị

2010

2.191

9.163

2011

2.242

10.367

2012

2.918

12.200

Nguồn: Bộ Kinh tế và Viện Thống kê Thổ Nhĩ Kỳ

Bảng thống kê cho thấy, mặc dù Thổ Nhĩ Kỳ là nước đứng thứ 5 trên thế giới về sản xuất chè và đạt mức tăng trưởng xuất khẩu khá cao, nhưng xét về số lượng và giá trị xuất khẩu thì không nhiều.

Cụ thể, so cùng kỳ năm trước, xuất khẩu chè của Thổ Nhĩ Kỳ năm 2010 đạt 2.191 tấn với giá trị kim ngạch 9,163 triệu USD, tăng 21,2% về lượng và 18,2% về giá trị; năm 2011 đạt 2.242 tấn với giá trị kim ngạch 10,367 triệu USD, tăng 2,3% về lượng và 13,1 về giá trị kim ngạch; năm 2012 đạt 2.918 tấn với giá trị 12,2 triệu USD, tăng 30,2% về lượng và 17,7% về giá trị kim ngạch.

Nguyên nhân Thổ Nhĩ Kỳ xuất khẩu chè thấp là do, một mặt phải đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, mặt khác phải cạnh tranh với các nước có thực lực về sản xuất và xuất khẩu chè như Kenya, Trung Quốc, Sri Lanka, Ấn Độ…

Chè xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ (Turkish Tea) chủ yếu là hai loại đóng hộp (chiếm khoảng 20%) và đóng gói (chiếm khoảng 80%). Thị trường xuất khẩu chè chủ yếu của Thổ Nhĩ Kỳ là các nước EU và Mỹ. Trong khối EU, Đức, Bỉ, Hà Lan, Anh là các nước nhập khẩu chè của Thổ Nhĩ Kỳ nhiều nhất.

Nhập khẩu

Bên cạnh việc xuất khẩu, Thổ Nhĩ Kỳ cũng nhập khẩu chè với số lượng khoảng trên dưới 3.000 tấn/năm. Điều đáng chú ý là trong những năm gần đây, kim ngạch nhập khẩu chè có dấu hiệu giảm dần.

Bảng: Kim ngạch nhập khẩu chè của Thổ Nhĩ Kỳ giai đoạn 2010 - 2012

Đơn vị tính: triệu USD

Năm

Giá trị

2010

21,67

2011

17,86

2012

13,95

Nguồn: Viện Thống kê Thổ Nhĩ Kỳ

Bảng thống kê cho thấy, so cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu chè (mã HS4 là 0902 và 0903) của Thổ Nhĩ Kỳ năm 2010 đạt 21,67 triệu USD, tăng 59,4%; năm 2011 đạt 17,86 triệu USD, giảm 17,6%; năm 2012 đạt 13,95 triệu USD, giảm 21,9%.

Nguyên nhân chính của việc nhập khẩu chè thấp là do một mặt Thổ Nhĩ Kỳ có đủ khả năng sản xuất để tự đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa cũng như một phần cho xuất khẩu. Mặt khác, nước này áp dụng chính sách bảo vệ sản xuất trong nước qua việc áp thuế nhập khẩu rất cao đối với mặt hàng chè là 145%.

Về thị trường, Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu chè chính từ Sri Lanka, tuy nhiên trong những năm gần đây nhập khẩu chè từ Iran tăng lên.

Một vấn đề nan giải mà hiện nay Thổ Nhĩ Kỳ đang phải đối mặt là việc nhập lậu chè. Do thuế nhập khẩu cao nên lượng chè buôn lậu qua biên giới vào Thổ Nhĩ Kỳ tương đối nhiều, trong đó nhập lậu nhiều nhất từ Bắc Đảo Síp. Ước tính số lượng chè nhập lậu vào Thổ Nhĩ Kỳ có thể lên tới 10.000 tấn/năm.

Trong quan hệ buôn bán hai chiều giữa Việt Nam và Thổ Nhĩ Kỳ, đối với mặt hàng chè, hàng năm Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này khoảng trên dưới 2 triệu USD. Cụ thể, theo số liệu của Hải quan Việt Nam, so cùng kỳ năm trước, năm 2010 đạt 2,3 triệu USD, tăng 9,5%; năm 2011 đạt 3 triệu USD, tăng 30,4%; năm 2012 đạt 500 ngàn USD, giảm 83%. Riêng 9 tháng đầu năm 2013 đạt 1,3 triệu USD, gấp hơn 2,5 lần so cả năm 2012. Ước tính, cả năm 2013 đạt 1,7 triệu USD, gấp 3,5 lần so năm 2012./.


Trần Ngọc Hà