
Sản xuất và tiêu thụ
Để đáp ứng nhu cầu thép tấm, nhà máy liên hợp sản xuất thép thứ hai Erdemir đi vào hoạt động năm 1965. Năm 1977, Nhà máy liên hợp sản xuất thép thứ ba Isdemir chính thức vận hành. Sau những năm 1980, lò luyện thép bằng hồ quang điện được đưa vào sử dụng. Năm 2001, Erdemir mua nhà máy Isdemir. 16 nhà máy khác cũng thuộc sở hữu tư nhân, sử dụng công nghệ hồ quang điện.
Dưới tác động của việc tự do hóa các hoạt động kinh tế, đến năm 2002, toàn bộ ngành sản xuất sắt thép của Thổ Nhĩ Kỳ đã được tư nhân hóa. Hiện nay, ngành công nghiệp sắt thép có 19 lò luyện bằng hồ quang điện và 3 khu liên hợp, sử dụng khoảng 30.000 lao động. Tổng công suất thiết kế 51,8 triệu tấn hàng năm, trong đó 69,5% là sắt thép phục vụ chủ yếu cho xây dựng, còn lại là thép tấm.
Sản xuất thép của Thổ Nhĩ Kỳ giai đoạn 2010 – 2012
Đơn vị tính: ngàn tấn
Loại thép
2010
2011
Tỉ lệ tăng trưởng 2011/2010 (%)
2012
Tỉ lệ tăng trưởng 2012/2011 (%)
Thép cây
21.827
24.400
11,8
Thép tấm
7.316
9.707
32,7
Tổng cộng
29.143
34.107
17,0
35.890
5,2
Nguồn: Bộ Kinh tế và Hiệp hội các nhà sản xuất thép Thổ Nhĩ Kỳ
Bảng thống kê trên cho thấy, so cùng kỳ năm trước, sản xuất thép thô của Thổ Nhĩ Kỳ năm 2010 đạt 29.143.000 tấn, tăng 15,2%. Trong đó, thép cây đạt 21.827.000 tấn, tăng 6,3%, thép tấm đạt 7.316.000 tấn, tăng 53,1%; năm 2011 đạt 34.107.000 tấn, tăng 17%. Trong đó, thép cây đạt 24.400.000 tấn, tăng 11,8%, thép tấm đạt 9.707.000 tấn, tăng 32,7%; năm 2012 đạt 35.890.000 tấn, tăng 5,2%.
Như vậy, trong năm 2010 và 2011, sản xuất thép thô của Thổ Nhĩ Kỳ đều đạt sự tăng trưởng khá. Trong đó, xu hướng sản xuất thép tấm có tốc độ tăng rất cao. Trong khi đó, tốc độ tăng năm 2012 chậm lại.
Tính đến năm 2012, Thổ Nhĩ Kỳ vươn lên đến vị trí thứ 8 trong danh sách các nước sản xuất thép lớn nhất thế giới từ vị trí thứ 10 trong năm 2011 vượt qua Brazil và Ukraine. Mặc dù giảm mạnh mức tăng trưởng từ 17% năm 2011 xuống 5,2% vào năm 2012, nhưng Thổ Nhĩ Kỳ vẫn giữ vị thế là một trong những quốc gia có sự tăng trưởng sản xuất thép thô cao nhất thế giới, tăng cao hơn so với mức trung bình của thế giới 4,5 lần.
Sự phát triển của ngành sắt thép đã tác động trực tiếp đến sản xuất các mặt hàng từ sắt thép. Hiện nay, Thổ Nhĩ Kỳ đã đáp ứng được nhu cầu sản xuất các mặt hàng sắt thép trong nước. Sắt thép công nghiệp, cơ khí và thép ống, đồ dùng nhà bếp được sản xuất ngày một nhiều và đa dạng mẫu mã, đủ đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Gang của Thổ Nhĩ Kỳ có thể dùng cho sản xuất kim loại hợp kim và phi hợp kim để làm các sản phẩm đúc. Các lò đúc hoàn toàn thuộc sở hữu tư nhân tập trung tại các khu vực Istanbul, Kocaeli, Bursa, Eskisehir, Bikesik, Izmir và Ankara.
Nhu cầu cao trong và ngoài nước cùng với các chính sách tích cực của chính phủ đã tạo đà cho việc gia tăng đầu tư và sản xuất các sản phẩm đúc và xuất khẩu. Các cơ sở sản xuất đã chú trọng nâng cao công suất bằng việc sử dụng các công nghệ mới để giảm chi phí sản xuất và tạo sản phẩm chất lượng cao. Đây đang là giai đoạn mở rộng sản xuất nhằm đạt các tiêu chuẩn quốc tế về sản xuất và sản phẩm. Tổng số các cơ sở đúc trong nước hiện nay là 1.200 với cả 3 loại quy mô nhỏ, vừa và lớn.
Đối với thép thành phẩm, số liệu của Hiệp hội các nhà sản xuất thép Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy, tổng sản lượng thép thành phẩm của Thổ Nhĩ Kỳ trong năm 2012 đạt 34,28 triệu tấn, tăng 7,3% so năm 2011.
Về tiêu dùng, thực tế cho thấy, Thổ Nhĩ Kỳ là nước đang phát triển, đặc biệt ngành xây dựng rất mạnh. Do vậy, nhu cầu tiêu dùng về sắt thép và các sản phẩm sắt thép khá cao ở nước này.
Theo số liệu của Hiệp hội các nhà sản xuất thép Thổ Nhĩ Kỳ, tiêu thụ thép của Thổ Nhĩ Kỳ đạt 28,5 triệu tấn năm 2012, tăng 5,6% so năm trước. Điều này cho thấy, tốc độ tăng trưởng tiêu thụ thép của Thổ Nhĩ Kỳ chậm lại đáng kể trong năm 2012 sau khi tăng trưởng ở mức hai chữ số trong năm 2010 và 2011. Trong đó, tổng lượng tiêu thụ các sản phẩm thép dài thường được sử dụng trong lĩnh vực xây dựng tăng 7,9%, ở mức 14,83 triệu tấn. Lượng tiêu thụ các sản phẩm thép dẹt thường được sử dụng trong lĩnh vực ô tô, máy móc, đồ điện và đóng tàu đạt 13,63 triệu tấn, tăng 3,1%. Việc tốc độ tăng trưởng trong tiêu thụ thép dẹt chậm hơn so với thép xây dựng phản ánh sự trì trệ trong ngành công nghiệp sản xuất của Thổ Nhĩ Kỳ trong năm 2012.
Tỷ lệ sản xuất/tiêu thụ các sản phẩm thép dẹt của Thổ Nhĩ Kỳ năm 2012 đạt 69%, trong khi đó mức này năm 2005 đạt 40%. Trong khi đó, tỷ lệ sản xuất/tiêu thụ các sản phẩm thép dài tăng từ 166% năm 2011 lên 170% vào năm 2012.
Xuất khẩu
Xuất khẩu sắt thép các loại của Thổ Nhĩ Kỳ giai đoạn 2010 – 2013
Đơn vị tính: tỷ USD
Năm
Giá trị kim ngạch
Mức tăng trưởng (%)
2010
13,6
12,4
2011
16,9
24,3
2012
17,4
3,0
7 tháng đầu năm 2013
11,1
- 37,3
Nguồn: Viện Thống kê Thổ Nhĩ Kỳ
Khủng hoảng tài chính bùng nổ giữa năm 2007 tại Mỹ đã ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ cũng không nằm ngoài vùng ảnh hưởng. Trong năm 2009, xuất khẩu sắt thép và các sản phẩm giảm 41% so năm 2008. Sau đó, nhờ sự hồi phục của nền kinh tế nói chung, xuất khẩu sắt thép và các sản phẩm đều tăng. Cụ thể, năm 2010, đạt 13,6 tỷ USD tăng 12,4%; năm 2011 đạt 16,9 tỷ USD, tăng 24,3%; năm 2012 đạt 17,4 tỷ USD, tăng 3%; 7 tháng đầu năm 2013 đạt 11,1 tỷ USD, giảm 37,3%.
Như vậy trong giai đoạn này, xuất khẩu nhóm hàng sắt thép và các sản phẩm năm 2011 có mức tăng trưởng cao nhất. Tuy nhiên, có xu hướng giảm trong năm 2012 và 7 tháng đầu năm 2013 do những tác động của thị trường.
Thị trường xuất khẩu nhóm hàng sắt thép và các sản phẩm của Thổ Nhĩ kỳ đứng đầu là các nước EU, đứng thứ hai là các nước Trung Đông, tiếp đến là Vùng Viễn Đông xếp thứ ba. Trong những năm gần đây, Thổ Nhĩ Kỳ đã mở rộng thị trường xuất khẩu sắt thép và các sản phẩm sang Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Iraq, Ả Rập Xê Út, Iran và Ai Cập.
Nhập khẩu
Nhập khẩu sắt thép các loại của Thổ Nhĩ Kỳ giai đoạn 2010 – 2013
Đơn vị tính: tỷ USD
Năm
Giá trị kim ngạch
Mức tăng trưởng (%)
2010
18,1
40,3
2011
22,9
26,5
2012
22,0
- 3,9
7 tháng đầu năm 2013
12,4
- 5,3
Nguồn: Viện Thống kê Thổ Nhĩ Kỳ
Theo số liệu của Viện Thống kê Thổ Nhĩ Kỳ, so cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng sắt thép và các sản phẩm của nước này năm 2010 đạt 18,1 tỷ USD, tăng 40,3%. Trong đó, sắt thép đạt 16,1 tỷ USD, tăng 41,2%; các sản phẩm sắt thép đạt 2 tỷ USD, tăng 33,3%.
Năm 2011 đạt 22,9 tỷ USD, tăng 26,5%. Trong đó, sắt thép đạt 20,4 tỷ USD, tăng 26,7%; các sản phẩm sắt thép đạt 2,5 tỷ USD, tăng 25%.
Năm 2012 đạt 22 tỷ USD, giảm 3,9%. Trong đó, sắt thép đạt 19,6 tỷ USD, giảm 3,9%; các sản phẩm sắt thép đạt 2,4 tỷ USD, giảm 4%.
7 tháng đầu năm 2013 đạt 12,4 tỷ USD, giảm 5,3%. Trong đó, sắt thép đạt 10,8 tỷ USD, giảm 8,5%; các sản phẩm sắt thép đạt 1,6 tỷ USD, tăng 23,1%.
Như vậy, nhập khẩu nhóm hàng sắt thép và các sản phẩm của Thổ Nhĩ Kỳ năm 2010 có mức tăng cao nhất (trong đó sắt thép có mức tăng rất cao), tiếp đến là năm 2011. Tuy nhiên, có xu hướng giảm nhẹ từ năm 2012 đến 7 tháng đầu năm 2013. Điểm đáng chú ý, trong 7 tháng đầu năm 2013, mặc dù sắt thép giảm, nhưng các sản sắt thép lại có mức tăng cao.
Các nhà phân tích cho rằng, việc giảm nhập khẩu nhóm hàng sắt thép và các sản phẩm của Thổ Nhĩ Kỳ chỉ sảy ra trong ngắn hạn bởi tác động của thị trường. Trên thực tế, như đã nói ở phần trên, Thổ Nhĩ Kỳ là nước đang phát triển, trong đó ngành xây dựng rất mạnh nên nhu cầu nhập khẩu nhóm hàng này sẽ tăng trở lại để đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước khi mà vấn đề khủng hoảng kinh tế, chính trị một số nước trong khu vực và thế giới được giải quyết. Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu nhóm hàng sắt thép và các sản phẩm chủ yếu từ các nước như Canada, Mỹ, EU, Trung Quốc và Hàn Quốc.
Đối với nhóm hàng sắt thép, trong buôn bán giữa Việt Nam và Thổ Nhĩ Kỳ có mối quan hệ qua lại trong thời gian qua, số lượng phụ thuộc vào giá cả và nhu cầu hàng năm. Cụ thể, so cùng kỳ năm trước, Việt Nam xuất khẩu nhóm hàng sắt thép sang Thổ Nhĩ Kỳ năm 2010 đạt 20 triệu USD, tăng 277,4%; năm 2011 đạt 28,6 triệu USD, tăng 43%; năm 2012 đạt 26,2 triệu USD, giảm 8,4%; 9 tháng đầu năm 2013 đạt 14,6 triệu USD, giảm 8,8%. Trong khi đó, Việt Nam nhập khẩu sắt thép từ Thổ Nhĩ Kỳ năm 2010 đạt 2,5 triệu USD, giảm 87,5%; năm 2011 đạt 431 ngàn USD, giảm 82,8%; năm 2012 đạt 8,8 triệu USD, tăng gấp 20,4 lần; 9 tháng đầu năm 2013 đạt 2,1 triệu USD, giảm 71,6%.
Như vậy, cũng giống như nhiều mặt hàng khác, Việt Nam luôn xuất siêu sắt thép sang Thổ Nhĩ Kỳ trong những năm qua, trong đó mạnh nhất vào năm 2011 với tỷ trọng 98,5% kim ngạch xuất khẩu./.