Đến dự hội nghị có ông Nguyễn Hữu Tú - Thành viên HĐTV, ông Lê Hoàng - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Hóa chất Việt Nam.
Nhiệm vụ trọng tâm trong công tác KHCN
Theo Ban Kỹ thuật – Tập đoàn Hóa chất Việt Nam, hiện nay, các quốc gia trên thế giới đang triển khai mạnh mẽ việc áp dụng sản xuất thông minh. Theo dự báo của IDC (Worldwide Digital Transformation 2020 Predictions), đến năm 2025, chi tiêu cho chuyển đổi số (Digital Transformation) trên toàn cầu sẽ đạt 4,7 nghìn tỉ USD.
Mỹ, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc,Trung Quốc… là những quốc gia đi đầu trong việc ứng dụng các sáng kiến sản xuất thông minh hiện nay. Chính phủ Hàn Quốc đã xây dựng biện pháp nhằm thúc đẩy việc hình thành 30.000 nhà máy thông minh vào năm 2022. Chính phủ kỳ vọng rằng các công ty trong ngành sản xuất sẽ tạo ra 66.000 việc làm thông qua tự động hóa 50% cơ sở sản xuất và tăng 18 nghìn tỷ won (16 tỷ USD) doanh thu.
Tại Tập đoàn Công nghiệp Hóa chất Việt Nam, một số doanh nghiệp đã chủ động nắm bắt xu hướng, tận dụng thời cơ từng bước chuyển đổi hoạt động sản xuất theo hướng sản xuất thông minh.
Đơn cử, Công ty CP Bột giặt LIX đã xây dựng và đưa vào sử dụng phần mềm Hệ thống quản lý kênh phân phối (DMS) cho phép giám sát chuỗi các hoạt động từ khâu bán hàng, quản lý hàng tồn kho đến khâu đặt hàng từ các nhà phân phối đã góp phần tăng đáng kể hiệu quả sản xuất kinh doanh nhờ tăng sản lượng bán hàng…
Công ty CP Cao su Đà Nẵng đã đầu tư một số dây chuyền hiện đại theo hướng vận dụng mô hình “nhà máy sản xuất thông minh”, nâng cao hiệu quả quản lý và hiệu lực kiểm soát quy trình sản xuất. Công ty CP Pin Ắc quy Miền Nam nghiên cứu đầu tư các dây chuyền sản xuất hiện đại khép kín, hệ thống kiểm tra chất lượng sản phẩm tự động nhằm vừa nâng cao và ổn định chất lượng sản phẩm vừa bảo đảm yếu tố môi trường…
Dự thảo Đề án cơ cấu lại Tập đoàn Hóa chất Việt Nam giai đoạn 2021-2025 cũng xác định rõ lộ trình cải tiến, đổi mới công nghệ giai đoạn 2021-2025. Trong đó, việc triển khai định hướng quốc gia về cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số được Tập đoàn xác định là một trong những nội dung trọng tâm, là yêu cầu khách quan, để giải quyết một số khó khăn cấp thiết của quá trình sản xuất.
Tại Hội nghị, các chuyên gia đến từ Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội đã chia sẻ các kinh nghiệm, giải pháp để thúc đẩy việc xây dựng mô hình nhà máy thông minh tại các nhà máy hóa chất.
Kinh nghiệm từ các doanh nghiệp
Là một trong những doanh nghiệp nỗ lực xây dựng mô hình nhà máy thông minh, đại diện Công ty CP Bột giặt Lix đã chia sẻ kinh nghiệm ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất kinh doanh tại công ty.
Cụ thể, công ty đã nâng cấp máy đóng chai. Kết quả, lao động trên line sản xuất không thay đổi, khai thác được năng suất robot xếp thùng lên pallet (~16-18 thùng/phút). Trong khi đó, năng suất lao động tăng thêm 30-40%; Chi phí sản giảm trung bình 65.000 đồng/tấn.
Bên cạnh đó, Lix đã đầu tư hệ thống Robot xếp thùng lên Pallet tại Lix Bình Dương với số lượng 3 Robot, full dây chuyền từ chia line, cấp pallet, xếp pallet, quấn màng và in lot tự động, năng suất 18 -22 thùng/phút/robot.
Kết quả, số lao động trên line sản xuất giảm từ 36 người xuống còn 4 người (giảm 32 người), chi phí sản xuất giảm. Xếp pallet được 80% sản lượng của Chi nhánh Bình Dương (7 line sản xuất chính). Tính công nghiệp hóa cũng được nâng cao.
Đối với giải pháp áp dụng Chương trình quản lý sản xuất, công ty đã số hóa các công đoạn từ triển khai công thức, lên kế hoạch và phân bổ lệnh sản xuất. Nhờ đó, luôn hoàn thành trên 99% kế hoạch sản xuất; Hiệu suất vận hành máy duy trì mức cao trên 90%; Giảm tỉ lệ hao hụt nguyên vật liệu bao bì; Dễ dàng cập nhật tình hình sản xuất, sản lượng theo real time.
Công ty CP Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao triển khai nghiên cứu, áp dụng công nghệ 4.0 trong công tác quản lý vòng đời sản phẩm. Theo đại diện công ty, đề tài triển khai phối hợp nghiên cứu và áp dụng thành công tem thông minh có mã QR (Công nghệ 4.0) trong công tác quản lý vòng đời sản phẩm phân bón Lâm Thao là một đề tài có ý nghĩa lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty kể từ đầu năm 2021 đến nay.
Sau 2 tháng nghiên cứu và thử nghiệm (tháng 11 và 12 năm 2020), công ty đã lựa chọn thống nhất được 01 bộ tem thông minh có mã QR gồm có 2 phần: Phần lộ thiên dài 100mm bao gồm 6 con tem nhỏ gắn liền nhau, phần này được dán vào vỏ bao bì và khâu bên ngoài miệng bao cùng với quá trình cân, đóng, khâu sản phẩm.
Ngoài ra có 1 con tem bí mật dán vào vị trí bất kỳ phía bên trong vỏ bao. Cả 6 tem bên ngoài và 01 tem bên trong làm thành một bộ tem sẽ nhận cùng một thông tin khi được kích hoạt. Mặt bên trong của tem không in, có keo làm chất kết dính để dán vào các loại vỏ bao bì. Chất liệu tem bền với tính chất lý hóa của sản phẩm và bền với thời gian.
Trong công đoạn xuất hàng, Phần mềm bán hàng và phần mềm cân hàng của Công ty đã có sẵn được bổ sung nâng cấp và có sự kết nối được với nhau. Căn cứ nhu cầu của khách hàng, Phòng Kinh doanh lập phiếu xuất hàng có mã QR đã được gán đầy đủ các thông tin: Tên sản phẩm, khối lượng, đơn vị xuất hàng, tên Công ty chịu trách nhiệm, tên khách hàng, mã vùng mã khách… Phần mềm cân hàng có camera tự động soi biển số xe ô tô nạp vào phiếu cân, quét mã QR để cập nhật đầy đủ thông tin hàng hóa vào phiếu cân bì và tiến hành cân bì xe.
Đơn vị sản xuất sản phẩm sẽ căn cứ vào phiếu xuất hàng, quyết định chọn Block cụ thể và quét mã QR cập nhật đầy đủ thông tin cho các Block sản phẩm này trước khi xuất lên phương tiện theo số lượng cụ thể của hàng hóa, thông qua phần mềm chuyên dụng của Công ty ETEM kết nối qua mạng internet tại vị trí xuất hàng.
Khi phương tiện đã được xếp sản phẩm di chuyển ra cầu cân để hoàn tất quá trình cân, nhân viên vận hành cân sẽ quét mã QR và camera soi kiểm tra lại biển số xe, in ra phiếu cân hàng, trên phiếu cân đã xác định xe được phép ra khỏi Công ty hay phải quay lại xử lý nếu chênh lệch khối lượng quá phạm vi cho phép.
Đối với việc lưu thông sản phẩm trên thị trường, để kiểm tra về sản phẩm, các đại lý, khách hàng chỉ cần dùng điện thoại Smartphone thông thường và dùng phần mềm chụp ảnh hoặc phần mềm quét QR trong Zalo của điện thoại để quét tem là kiểm tra xác định được đầy đủ chi tiết các thông tin sản phẩm.
Đại diện Công ty CP Cao su Miền Nam (Casumina) cho biết, công ty đã ứng dụng chuyển đổi số cho hệ thống quản lý lốp PCR ADVENZA trong sản xuất, bán hành và bảo hành. Phương pháp này đòi hỏi ứng dụng QR Code, áp dụng thương mại điện tử.
Theo đó, Nhãn QR Code là sự mã hóa bảo vệ an toàn thông tin khi đưa vào sử dụng. Ngày nay, QR Code được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia, lĩnh vực, giúp tiện lợi truy xuất thông tin nguồn gốc sản phẩm, thanh toán online, trao đổi thông tin liên lạc nhanh chóng không cần nhập liệu. QR Code có thể đọc được bằng máy đọc mã vạch hay điện thoại thông minh có chức năng chụp ảnh.
Đối với việc ứng dụng thương mại điện tử, công ty đã áp dụng mua, bán sản phẩm hay dịch vụ trên các hệ thống điện tử giữa các doanh nghiệp, gia đình, cá nhân, tổ chức thông qua Internet. Đồng thời, chuyển tiền điện tử, quản lý chuỗi cung ứng, tiếp thị Internet, giao dịch trực tuyến, các quản lý hàng tồn kho, và các hệ thống tự động thu thập dữ liệu. Thương mại điện tử giúp việc kinh doanh của Casumina vượt qua những rào cản địa lý và khách hàng mua sản phẩm bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu chỉ với thiết bị di động có kết nối Internet.
Phát biểu kết luận hội nghị, ông Lê Hoàng nhấn mạnh, hiện nay, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam đang xây dựng những định hướng hoạt động và giải pháp về kỹ thuật công nghệ, trong đó xác định nhiệm vụ triển khai chuyển đổi số trong sản xuất là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và yêu cầu khách quan, đòi hỏi triển khai kịp thời.
Thực tế cho thấy, các công nghệ hiện nay phát triển rất nhanh. Từ thế kỷ 18 diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp lần 1, sau đó 100 năm đến cách mạng công nghiệp lần 2, sau 50 năm là cách mạng công nghiệp lần thứ 3; năm 2011 đánh dấu cách mạng công nghiệp 4.0 và năm 2023 dự báo là 5.0.
Để triển khai lộ trình đổi mới khoa học công nghệ theo định hướng quốc gia về cách mạng công nghiệp 4.0 là sản xuất có tính hệ thống, năm 2023, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam sẽ phối hợp với các đơn vị thành viên đánh giá hiện thực dây chuyền sản xuất, đánh giá khả năng tự động hóa, số hóa từng khâu, từng phần, từng công đoạn của dây chuyền sản xuất trên cơ sở đánh giá khả năng tự động hóa. Đồng thời, xây dựng kế hoạch thực hiện đổi mới tự động hóa dây chuyền thiết bị sản xuất dựa trên khả năng đáp ứng về vốn và công nghệ của các doanh nghiệp trong toàn tập đoàn.
“Hiện tại, một trong những hạn chế của doanh nghiệp là nguồn vốn tương đối nhỏ nên để đầu tư đổi mới công nghệ cũng có những khó khăn nhất định. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn cần phải lựa chọn những giải pháp thích ứng phù hợp với từng đơn vị để làm. Đề nghị các doanh nghiệp trước hết phải có phân tích, đánh giá thực tế rồi quyết định tập trung làm việc gì, làm như thế nào” – ông Lê Hoàng nhấn mạnh.