TÓM TẮT:
Tại Việt Nam, khái niệm "dịch vụ logistics" lần đầu tiên được luật hóa trong Luật Thương mại năm 2005. Tuy nhiên mãi đến năm 2015, Quy hoạch Phát triển hệ thống trung tâm logistics đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 mới được phê duyệt theo Quyết định số 1012/QĐ-TTg ngày 03/7/2015 (sau đây gọi tắt là Quyết định số 1012/QĐ-TTg). Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế và lĩnh vực dịch vụ logistics, nhu cầu đầu tư phát triển trung tâm logistics của các tỉnh, thành phố và các nhà đầu tư trên cả nước ngày càng nhiều. Nghiên cứu về sự phát triển của hoạt động logistics gần đây cho thấy tại Việt Nam đang thiếu các trung tâm logistic chuyên nghiệp đáp ứng nhu cầu thực tế. Vì vậy, bài viết đã đưa ra những kiến nghị đối với cơ quan quản lý và đề xuất giải pháp chính để xây dựng và phát triển các trung tâm logistics tại Việt Nam.
Từ khóa: logistics, trung tâm logistics, giải pháp phát triển.
1. Khái niệm trung tâm logistics
Cũng giống như khái niệm logistics, có nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về trung tâm logistics, nhưng định nghĩa được thừa nhận rộng rãi nhất và tương đối hoàn chỉnh là định nghĩa của Hiệp hội Trung tâm Logistics châu Âu Europlatforms (European Association of Freight Villages). Theo Hiệp hội này "Trung tâm logistics là một khu vực nơi thực hiện các hoạt động liên quan đến vận tải, logistics và phân phối hàng hóa nội địa cũng như quốc tế, được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau. Các chủ thể này có thể là người chủ sở hữu hoặc là người thuê sử dụng các cơ sở vật chất và trang thiết bị của trung tâm logistics như kho bãi, văn phòng, khu vực xếp dỡ hàng,… Trung tâm logistics cần phải có và được trang bị các trang thiết bị phục vụ cho các hoạt động và dịch vụ của trung tâm. Trung tâm logistics cần được kết nối với các phương thức vận tải khác nhau như đường ôtô, đường sắt, đường biển, đường sông, đường hàng không..." (Đại học Huế, Trường Đại học Thủy lợi, Trường Đại học Bremen CHLB Đức (2023).
Điểm d, khoản 14 Điều 2 của Nghị định số 40/2025/NĐ-CP ngày 26/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương quy định: “Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng chính sách phát triển hạ tầng thương mại (bao gồm chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm, trung tâm đấu giá hàng hóa, trung tâm logistics, kho hàng hóa, trung tâm hội chợ, triển lãm, cửa hàng bán lẻ) theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, tiếp cận dưới góc độ là một loại hình hạ tầng thương mại, trung tâm logistics là địa điểm trực tiếp cung cấp các dịch vụ logistics được thực hiện bởi các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics. Trung tâm logistics là cơ sở kinh doanh hoặc thuộc sở hữu của các chủ thể này hoặc dành cho các chủ thể này thuê để tổ chức kinh doanh (cung cấp dịch vụ cho khách hàng).
Trung tâm logistics quy hoạch theo Quyết định số 1012/QĐ-TTg thực hiện các dịch vụ logistics gắn liền với lưu thông, phục vụ nhu cầu về hậu cần cho các hệ thống, mạng lưới phân phối hàng hóa. Trong đó đề cập tới bộ phận dịch vụ logistics thuê ngoài (outsourcing logistics), chủ yếu được tổ chức kinh doanh đồng bộ và trọn gói (tích hợp, hợp nhất nhiều dịch vụ), tổ chức và hoạt động theo mô hình logistics 3PL; không quy hoạch (nhưng vẫn xem xét, tính đến trong mối quan hệ tương hỗ và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau) các trung tâm logistics với mục đích, công năng chủ yếu là cung cấp dịch vụ giao nhận, vận tải, kho bãi phục vụ cho các hoạt động xuất nhập khẩu và trung tâm logistics mô hình 1PL, 2PL, các dạng trung tâm logistics nội bộ doanh nghiệp khác (do doanh nghiệp tự lập ra để tự phục vụ mình).
Trung tâm logistics là yếu tố quan trọng trong hệ thống cơ sở hạ tầng logistics thực hiện các chức năng cơ bản như lưu kho bãi, xếp dỡ hàng, gom hàng, chia nhỏ hàng, phối hợp phân chia hàng, lưu giữ hàng tối ưu, tạo ra giá trị gia tăng, chuyển tải và logistics ngược, xúc tiến thương mại, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và thực hiện liên kết kinh tế. Trung tâm logistics còn là nơi thực hiện các thủ tục hải quan, thông quan, kiểm tra kiểm soát hàng hóa,… cũng như các chức năng quản lý nhà nước khác theo quy định đối với hoạt động logistics nội địa và hoạt động logistics quốc tế. Trung tâm logistics cũng có thể cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho khách hàng như ăn, nghỉ, dịch vụ tư vấn, dịch vụ tài chính - tín dụng, cho thuê văn phòng, cung cấp dịch vụ cho hoạt động bán lẻ các sản phẩm cuối, cũng như các linh phụ kiện cho khách hàng cuối, mang lại lợi ích và hiệu quả sản xuất - kinh doanh cho cả khách hàng cuối cũng như nhà sản xuất phân phối.
Trung tâm logistics có vai trò rất quan trọng trong việc tối ưu hóa các dòng vận động hàng hóa, tiền tệ, thông tin, thúc đẩy lưu thông hàng hóa, xuất nhập khẩu, rút ngắn thời gian vận chuyển, giảm chi phí logistics, nâng cao hiệu quả, tạo cơ hội mở rộng kinh doanh và khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp, làm tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh cho quốc gia, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2. Thực trạng phát triển các trung tâm logistics tại Việt Nam hiện nay
2.1. Về hành lang pháp lý
Hoạt động logistics đã diễn ra từ lâu tại Việt Nam nhưng phải đến năm 2005, nước ta mới có văn bản pháp luật đầu tiên định nghĩa về hoạt động này tại Luật Thương mại và đến năm 2015 Quy hoạch Phát triển hệ thống trung tâm logistics đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 mới được phê duyệt theo Quyết định số 1012/QĐ-TTg.
Sau khi Quyết định số 1012/QĐ-TTg được ban hành, nhiều địa phương, doanh nghiệp đã phản ánh sự lúng túng trong việc xác định, phân loại, phân hạng các trung tâm logistics để thực hiện các nội dung nêu trong Quyết định nói trên. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa có một văn bản nào quy định rõ về trung tâm logistics như khái niệm, phân loại… dẫn đến việc lúng túng trong quản lý nhà nước và triển khai trong thực tiễn.
2.2. Về thực tiễn hoạt động của trung tâm logistics
Dịch vụ logistics có sự phát triển nhanh chóng và trở thành ngành kinh tế đóng góp ngày càng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Cùng với sự phát triển của ngành Logistics, cơ sở hạ tầng logistics, trong đó có các trung tâm logistics từng bước được đầu tư xây dựng ở Việt Nam từ năm 2007, đến nay, một số trung tâm đã và đang hoạt động.
Năm 2012, tại miền Bắc có 02 trung tâm logistics gồm: Trung tâm Logistics Cái Lân-VOSA (Quảng Ninh), Trung tâm Logistics Green-Đình Vũ (Hải Phòng). Tại miền Nam có 04 trung tâm logistics, gồm: Trung tâm logistics Geodis Wilson Cát Lái (TP. Hồ Chí Minh), Trung tâm tiếp vận Schenker Germadept (Bình Dương), Trung tâm Logistics Gemadept Sóng Thần (Bình Dương), Trung tâm logistics Damco Bình Dương. Một số trung tâm được cấp giấy phép đầu tư và cấp đất như: Trung tâm logistics Kerry Hưng Yên, Trung tâm logistics Kerry Đà Nẵng, Trung tâm Logistics tại xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng, Trung tâm logistics Kim Thành (Lào Cai).
Đến hết năm 2021, cả nước đã xây dựng và phát triển 79 trung tâm logistics, bao gồm 48 trung tâm logistics đã đi vào hoạt động, 31 trung tâm logistics đang trong quá trình triển khai xây dựng. Trong giai đoạn 2017- 2022, nhiều trung tâm logistics hiện đại, áp dụng công nghệ tiên tiến và được tiêu chuẩn hóa đã đi vào hoạt động, như: Trung tâm logistics Vinatrans Đà Nẵng, Trung tâm logistics KM Cargo Services Hải Phòng, Trung tâm logistics Vĩnh Tân Bình Thuận... Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ là vùng đang có tốc độ phát triển số lượng trung tâm logistics nhanh nhất cả nước với 12 trung tâm logistics đang được triển khai xây dựng trong tổng số 17 trung tâm logistics. Tuy nhiên, tổng thể chung vẫn còn nhiều bất cập và chưa đáp ứng được các yêu cầu đặt ra để thu hút doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng dịch vụ (Anh Đào, 2023).
Theo Báo cáo Logistics các năm 2022, 2023 và 2024, hệ thống kết cấu hạ tầng logistics tiếp tục được quan tâm đầu tư, phát triển mạnh mẽ theo hướng hiện đại, an toàn, nhiều công trình đạt chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, mạng lưới giao thông đã kết nối đến mọi vùng, miền trong cả nước, giúp giảm chi phí logistics và thời gian giao hàng. Nhiều chính sách mới được ban hành, các thủ tục được điều chỉnh theo hướng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp; công tác thông tin, tuyên truyền và các hoạt động nghiên cứu, xúc tiến, hợp tác quốc tế về logistics diễn ra sôi nổi, rộng khắp ở cả cấp trung ương và địa phương. Vấn đề sản xuất thân thiện môi trường và phát triển bền vững được quan tâm ở cả cấp quản lý vĩ mô và doanh nghiệp.
Với tiềm năng phát triển thị trường logistics Việt Nam, nhiều doanh nghiệp trong nước và quốc tế đã và đang đầu tư mạnh vào lĩnh vực logistics, như: Công ty liên doanh Indo-Trans keppel logistics Việt Nam (ITL Keppel), Công ty Keppel logistics thuộc Tập đoàn Viễn thông và Vận tải Keppel, Công ty sản xuất, nhập khẩu Bình Dương (Protrade), Tập đoàn YCH của Singapore, Công ty DB Schenker Việt Nam thuộc Tập đoàn logistics Schenker đưa vào khai thác trung tâm logistics SCL tại khu công nghiệp Sóng thần I (Bình Dương)… Cùng với quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, hệ thống các trung tâm logistics Việt Nam từng bước được hình thành, chủ yếu nằm trong các khu công nghiệp và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hệ thống logistics quốc gia, góp phần thúc đẩy thương mại trong nước và xuất nhập khẩu hàng hóa.
Tuy nhiên, trung tâm logistics ở nước ta chủ yếu thuộc sở hữu của một doanh nghiệp và cung ứng dịch vụ cho khách hàng, chưa có nhiều trung tâm phát triển đến quy mô hội đủ các yếu tố của một trung tâm logistics hiện đại như các nước phát triển, chưa hình thành các cụm logistics. Một số trung tâm logistics chưa thực hiện được chức năng kết nối liên hoàn các phương tiện vận tải của các địa phương và vùng lãnh thổ vì các trung tâm hiện nay được xây dựng riêng lẻ chỉ để phục vụ mục đích của doanh nghiệp đầu tư kinh doanh.
Quyết định số 1012/QĐ-TTg về quy hoạch phát triển hệ thống trung tâm logistics quy mô loại 1 mới chỉ có 20 - 30 ha, loại 2: 10 - 12 ha; trung tâm logistics chuyên dùng chỉ có 3 - 4 ha. Tại các khu công nghiệp hiện có của các địa phương, thành phố, các doanh nghiệp đầu tư xây dựng trung tâm logistics riêng để phục vụ cho sản xuất, kinh doanh; bên cạnh đó đang có sự bất cập trong quy hoạch các khu công nghiệp và các trung tâm logistics ở Việt Nam. Thực trạng này khiến cho chi phí logistics tăng cao so với các nước, thời gian luân chuyển hàng hóa giữa các vùng còn dài, do đó làm giảm giá trị, chất lượng hàng hóa và khả năng cạnh tranh trên các thị trường. Hiện nay, các địa phương đã quy hoạch, triển khai và xây dựng trung tâm logistics tích hợp trong quy hoạch tỉnh, song việc triển khai thực hiện vẫn còn chậm. Năng lực khai thác của các trung tâm logistics chưa đạt như kỳ vọng do quy mô, tác động của thị trường.
Sự phát triển các trung tâm logistics ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Trước hết do cơ chế, chính sách phát triển cơ sở hạ tầng logistics hạn chế nên chưa thực sự thúc đẩy và thu hút đầu tư vào lĩnh vực này. Vì vậy, cho đến thời điểm hiện tại số lượng trung tâm logistics ở Việt Nam không nhiều. Sự quan tâm, quy hoạch đầu tư xây dựng các trung tâm logistics còn hạn chế; hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông tuy được đầu tư xây dựng khang trang nhưng mang tính đơn lẻ theo từng phương tiện, thiếu kết nối liên hoàn, thiếu mô hình các trung tâm logistics cho vận hành khai thác hiệu quả và văn minh giao thông; các trung tâm logistics có quy mô rất hạn chế. Nhận thức về vai trò và vị trí của cơ sở hạ tầng logistics nói chung và các trung tâm logistics nói riêng trong nền kinh tế chưa đầy đủ. Các trung tâm logistics chưa phát huy hiệu quả cao trong việc thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hóa. Các ngành và các địa phương chưa thực sự quan tâm, ủng hộ logistics và phát triển các trung tâm logistics vì mô hình tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào tài nguyên và lao động trình độ thấp. Hàng hóa xuất nhập khẩu chủ yếu vẫn là gia công và khối doanh nghiệp nước ngoài vẫn chiểm tỷ trọng chủ yếu trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Ngoài ra, một nguyên nhân không kém phần quan trọng nữa đó là do nhân lực trong ngành Logistics vẫn còn thiếu và hạn chế. Việc thiếu nhân lực được đào tạo bài bản, chính quy về các kiến thức và kỹ năng chuyên ngành cũng là một rào cản không nhỏ đối với sự phát triển chung của ngành Logistics.
3. Đề xuất giải pháp phát triển trung tâm logistics
Một là, để quản lý nhà nước và thu hút đầu tư phát triển hệ thống các trung tâm logistics, cần xây dựng cơ chế, chính sách rõ ràng hơn. Có thể ban hành Quyết định, Nghị định của Chính phủ hoặc Thông tư quy định các nội dung quan trọng về hạ tầng logistics, trung tâm logistics như khái niệm (làm rõ nội hàm), tiêu chí phân loại, phân hạng trung tâm logistics, phân cấp, phân quyền quản lý trung tâm logistics…).
Hai là, cần đánh giá tổng thể việc thực hiện Quyết định số 1012/QĐ-TTg, cần rút ra bài học kinh nghiệm. Đồng thời, theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 59 Luật Quy hoạch năm 2017, Quy hoạch phát triển hệ thống trung tâm logistics sẽ tích hợp vào quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh được thực hiện cho đến khi quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh được quyết định hoặc phê duyệt. Thực hiện chủ trương đã được Trung ương Đảng thông qua tại Hội nghị Trung ương lần thứ 11, khóa XIII, sắp tới sẽ có nhiều địa phương nằm trong diện sáp nhập, do vậy, quy hoạch của các địa phương cũng sẽ có thay đổi. Dựa vào quy hoạch chung, cần điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển hệ thống trung tâm logistics tại các địa bàn cả nước. Trong đó, xác định lại các không gian kinh tế và phân bố một cách tương thích các trung tâm logistics quốc gia và cấp vùng, đảm bảo thống nhất với định hướng phát triển kinh tế, xã hội, định hướng ngành và lĩnh vực liên quan, đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế các vùng và cả nước. Ưu tiên đầu tư nâng cấp các trung tâm logistics hiện có hoạt động hiệu quả hơn, hướng tới xây dựng trung tâm logistics quy mô, hiện đại và đầy đủ chức năng.
Ba là, cần có chính sách ưu tiên tập trung đầu tư cho phát triển các cụm logistics kết nối với các cảng biển quốc tế, các cửa khẩu quốc tế và các cửa ngõ đi vào các thành phố lớn để giảm chi phí logistics. Xây dựng trung tâm logistics để kết nối các địa phương nhằm thực hiện liên kết kinh tế, khai thác hiệu quả các hành lang kinh tế trên các địa bàn. Khuyến khích các trung tâm logistics cung cấp chuỗi dịch vụ logistics toàn trình nhằm tiết kiệm thời gian, giảm chi phí cho các doanh nghiệp. Dựa vào sự tăng trưởng quy mô của thị trường, các trung tâm logistics cần được thiết kế các dịch vụ trọng tâm nhằm giảm hiện tượng phân mảnh và manh mún. Các dịch vụ đi kèm khác như ngân hàng, bảo hiểm, văn phòng, sửa chữa container, pallet cũng cần được hỗ trợ. Bên cạnh đó, cần đầu tư xây dựng các trung tâm logistics tập trung vào các dịch vụ logistics thuê ngoài, tích hợp trọn gói và đồng bộ, tổ chức và hoạt động theo mô hình logistics bên thứ 3 (3PL), triển khai mô hình logistics bên thứ 4 (4PL) và logistics bên thứ 5 (5PL) trên cơ sở phát triển thương mại điện tử và quản trị chuỗi cung ứng hiện đại, hiệu quả, chuyên nghiệp.
Bốn là, hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, ưu tiên cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng logistics hiện đại, bền vững (trong đó có logistics xanh nhằm bảo vệ môi trường, giảm thiểu khí thải carbon). Cơ sở hạ tầng logistics phát triển chính là hệ thống cơ sở hạ tầng được kết nối liên hoàn của các cơ sở hạ tầng giao thông, thương mại, công nghệ thông tin và các lĩnh vực dịch vụ khác có liên quan theo hướng đảm bảo tối ưu hóa dòng vận động hàng hóa, tiền tệ, thông tin với mục tiêu giảm chi phí thấp nhất trong phân phối, lưu thông của nền kinh tế quốc dân.
Công nghệ thông tin ứng dụng hiệu quả sẽ giúp các doanh nghiệp logistics nhanh chóng cập nhật các phương tiện, hàng hóa được vận chuyển giữa các bên liên quan, kịp thời triển khai các dịch vụ, từ đó hạn chế tối đa các chi phí phát sinh cũng như các chi phí không chính thức khác, qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất nhập khẩu Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Năm là, cần có cơ chế, chính sách thu hút các nguồn hàng trong lưu thông (có hàng hóa mới có dịch vụ logistics), liên kết, mở rộng các thị trường trong nước và quốc tế bằng cơ chế hợp tác liên ngành, liên vùng, liên quốc gia, thu hút các doanh nghiệp xuất nhập khẩu lớn đầu tư vào sản xuất - kinh doanh, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu.
Sáu là, đẩy mạnh đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho ngành Logistics Việt Nam nhằm thúc đẩy các hoạt động xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp. Theo Báo cáo Logistics Việt Nam năm 2024, ngành Logistics Việt Nam đang phải đối mặt với một khoảng trống lớn về nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn. Nhu cầu về nhân lực trong ngành này dự kiến sẽ tăng mạnh, từ khoảng 1,2 triệu người hiện tại lên tới 2,5 triệu người vào năm 2030. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 5 - 7% lực lượng lao động trong ngành Logistics được đào tạo bài bản, dẫn đến tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng về nhân lực có trình độ. Do đó, cần có chính sách hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực logistics (học bổng, hỗ trợ tài chính và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào đào tạo), tạo điều kiện để sinh viên được tiếp cận với môi trường thực tế. Tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành liên quan đến logistics như Bộ Xây dựng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Công Thương, các Hiệp hội và các trường đại học để phát triển chương trình đào tạo logistics phù hợp với nhu cầu thị trường.
4. Kết luận
Với vị trí thuận lợi trong vận chuyển đường hàng hải, hàng không quốc tế, đường bộ, đường sắt, Việt Nam có thể trở thành trung tâm trung chuyển thương mại quan trọng, kết nối khu vực và quốc tế. Đồng thời, với vị trí chiến lược tại Đông Nam Á, nằm giữa các nền kinh tế lớn và tiềm năng phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực logistics, Việt Nam có thể được định vị như một trung tâm trung chuyển hàng hóa quan trọng trên bản đồ kinh tế toàn cầu. Trong thời gian tới, cần tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm phát triển hạ tầng logistics, trung tâm logistics đồng bộ hơn, hiện đại hơn nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập, thu hút đầu tư, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương và cả nước./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Đại học Huế, Trường Đại học Thủy lợi, Trường Đại học Bremen CHLB Đức (2023), Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế, NXB Lao động.
Anh Đào (2023), Hướng tới trung tâm logistics kết nối khu vực, Báo Nhân dân, truy cập tại https://nhandan.vn/huong-toi-trung-tam-logistics-ket-noi-khu-vuc-post751893.html?gidzl=e7-T57y8JmsjQPKHSn9B3gnhbHTe4niBjJwH4pn6J0xlCP0TOnyO1RnWmanc5XnKwMZ3JJ3gJ-ihU0LE2W
Bộ Công Thương (2022), Báo cáo Logistics Việt Nam 2022, NXB Công Thương.
Bộ Công Thương (2023), Báo cáo Logistics Việt Nam 2023, NXB Công Thương.
Bộ Công Thương (2024), Báo cáo Logistics Việt Nam 2024, NXB Công Thương.
Developing logistics centers in Vietnam: Current status and solutions
Dao Minh Thu1
Le Thi Thu Hang2
1Department of Domestic Market Management and Development, Ministry of Industry and Trade
2Faculty of Business Administration I, Posts and Telecommunications Institute of Technology
Abstract:
In Vietnam, the concept of "logistics services" was first formally recognized in the 2005 Commercial Law. However, it was not until the issuance of Decision No. 1012/QD-TTg on July 3, 2015 - approving the Planning for the Development of the Logistics Center System to 2020, with an orientation toward 2030 - that a strategic framework for logistics center development was established. As Vietnam’s economy and logistics sector continue to grow, the demand for investment in logistics centers by localities and private investors has increased significantly. Recent studies indicate a shortage of professional, large-scale logistics centers capable of meeting practical demands. In response, this paper provides recommendations for state management agencies and proposes key solutions to accelerate the construction and development of logistics centers nationwide.
Keywords: logistics, logistics center, development solution.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 16 năm 2025]
