TIN TỨC - SỰ KIỆN
Cần tận dụng WTO làm đòn bẩy phát triển bền vững
“Việc gia nhập WTO mới chỉ là khởi đầu của một sân chơi thương mại lớn nên cần tận dụng những lợi thế làm đòn bẩy cho việc phát triển bền vững”. Đó là ý kiến của ông Lương Văn Tự, - nguyên Trưởng đoàn đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam tại Hội thảo đánh giá kết quả thực hiện chương trình hành động của Chính phủ ban hành kèm theo Nghị quyết 16/2007 do ban B-WTO phối hợp với Bộ Công Thương tổ chức sáng 4/3 tại Hà Nội. Nhìn lại sau ba năm gia nhập WTO của Việt Nam báo cáo của Bộ Công Thương cho thấy, việc hội nhập kinh tế quốc tế và việc gia nhập WTO đã có tác dụng tích cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Bên cạnh các tác động hữu hình như gia tăng kim ngạch xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh, hệ thống phân phối được cải thiện... thì việc gia nhập WTO còn có những tác động vô hình khác. Tuy nhiên, ba năm gia nhập WTO là quãng thời gian chưa đủ dài, thêm vào đó là những biến động khó lường của kinh tế toàn cầu... nên khó có thể đánh giá và nhìn nhận, bóc tách rõ ràng, đầy đủ những tác động của việc gia nhập WTO đối với nền kinh tế Việt Nam. Nhiều chuyên gia tại hội nghị cũng đóng góp những ý kiến cho các chương trình hành động của các bộ ngành và địa phương thời gian qua và đề xuất một số ý kiến cho dự thảo chương trình hành động những năm tiếp theo. Theo bà Hoàng Thị Tuyết Hoa - Phó Vụ trưởng Vụ kế hoạch Bộ Công Thương, trong chương trình hành động đã thực hiện thời gian qua thì nhiều công việc vẫn chưa có sự phối hợp tốt từ trung ương đến địa phương, thậm chí nhiều địa phương rất lúng túng không biết triển khai thế nào. Đơn cử trong việc đổi mới nâng cao hiệu quả đầu tư được giao cho một số bộ ngành như: bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Công Thương và Bộ TN&MT, thì nhìn chung nội dung này vẫn chưa bám sát hoặc chưa cụ thể hóa được hết những nội dung được đặt ra trong chương trình hành động trước đó. Còn ở các địa phương, nội dung này rất đa dạng và có nhiều sự khác biệt, thể hiện dưới các hình thức như: chính sách, đề án, qui hoạch chung thu hút đầu tư; xây dựng các qui hoạch chi tiết phát triển các mặt hàng cụ thể, cơ sở hạ tầng, sàn giao dịch điện tử...nhưng không xử lý được mục tiêu trọng tâm đặt ra là nâng cao hiệu quả đầu tư của địa phương. Hơn nữa trong việc xây dựng chiến lược, nâng cao năng lực cạnh tranh đối với các sản phẩm có lợi thế thì trong chương trình hành động của địa phương lại chưa rõ. (Thông Tấn Xã Việt Nam 5/3)

Năm 2011 phấn đấu đạt mức tăng trưởng 15% so với năm 2010
Tổng hợp báo cáo của 21 Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước cho thấy: Tổng doanh thu toàn khối năm 2010 ước đạt 1.173.489 tỷ đồng, vượt 22% kế hoạch năm và tăng 36% so với năm 2009. Có 20/21 Tập đoàn, Tổng công ty làm ăn có lãi (chỉ có duy nhất Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam bị thua lỗ), tổng lợi nhuận trước thuế ước đạt 70.778 tỷ đồng. Tổng nộp ngân sách ước đạt 173.549 tỷ đồng, tăng 31% so với thực hiện năm 2009. Để tập trung cho nhiệm vụ kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội năm 2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã yêu cầu các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước phải tập trung chỉ đạo quyết liệt, có hiệu quả các giải pháp để đạt tăng trưởng bình quân ở mức 15% trong năm nay. Các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty Nhà nước phải rà soát lại các dự án đầu tư, dừng, hoãn, cắt giảm các dự án đầu tư chưa cần thiết, kém hiệu quả, kể cả các dự án đầu tư ra nước ngoài để tập trung vốn và đẩy nhanh tiến độ cho các dự án thuộc ngành, nghề kinh doanh chính mà sớm đem lại hiệu quả. (Quân Đội Nhân Dân 6/3)

Thiếu công bằng trong tăng giá điện
Kể từ 1/3, giá điện bình quân được tăng thêm 15,3%. Đây là một chính sách cần thiết để giảm bớt tình trạng giá điện bị bóp méo trong nhiều năm, nhờ đó giảm trợ cấp cho các hoạt động sử dụng điện không hiệu quả, đồng thời khuyến khích đầu tư cho sản xuất điện. Mặc dù việc tăng giá điện là một bước đi đúng hướng nhằm cải thiện hiệu quả sử dụng điện nhưng nó lại đặt ra những câu hỏi lớn về tính công bằng. Theo ý kiến của một vị Thứ trưởng Bộ Công Thương thì “việc bỏ bao cấp toàn dân 50 kWh đầu sẽ giúp tránh trợ cấp nhầm cho người giàu, người không phải thu nhập thấp”. Thế nhưng, nếu nhìn vào số liệu về tỷ lệ tiền điện tăng thêm cho các mức tiêu dùng điện khác nhau thì chúng ta lại thấy một bức tranh ngược lại. Rõ ràng là theo biểu giá mới, một hộ gia đình càng tiêu dùng nhiều điện thì tỷ lệ tiền điện phải đóng thêm càng ít. Cụ thể là những hộ tiêu dùng dưới 50 kWh nhưng không có chứng nhận hộ nghèo sẽ không nghiễm nhiên được hưởng mức trợ giá như trước, và vì thế tiền điện phải đóng sẽ cao hơn 65,5% so với trước. Với việc không trợ giá đại trà cho 50 kWh đầu tiên, nhóm có mức tiêu thụ nằm trong khoảng 51-75 kWh/tháng sẽ là nhóm chịu tác động lớn nhất vì hóa đơn tiền điện của họ sẽ tăng trong khoảng 69-95%. Trái lại, mức tăng giá áp dụng đối với các hộ sử dụng nhiều điện chưa đến 4%, thấp hơn rất nhiều so với mức tăng giá điện trung bình 15,3%. Với bảng giá điện được thiết kế như thế này, một hộ phải dùng đến 290 kWh/tháng mới phải đóng thêm 15,3% tiền điện; và nếu dùng tới 400 kWh/tháng thì tỷ lệ đóng thêm chỉ còn là 11,2% - hoàn toàn tương phản với mức tăng 65-95% của nhóm sử dụng dưới 75 kWh/tháng. Đã đành là do giá điện trước đây của hộ nghèo tương đối thấp nên tỷ lệ tăng có thể phải nhiều hơn, song chênh lệch đến mức độ này thì quả là thiếu tính công bằng đối với các hộ nghèo. Để biện minh cho việc những hộ hàng tháng dùng từ 400 kWh trở lên không phải chịu bậc thang nào cao hơn, vị thứ trưởng nói trên của Bộ Công Thương phát biểu rằng theo tính toán của bộ, số hộ thuộc nhóm này chiếm chưa tới 2%. Đúng là 2% không lớn, song mỗi hộ trong số này có thể tiêu thụ một lượng điện gấp 10, thậm chí 20 lần các hộ nghèo thì tỷ trọng điện tiêu thụ và do vậy, khả năng tiết kiệm của họ không hề nhỏ. Cách thiết kế biểu giá điện tiêu dùng hợp lý hơn sẽ là vẫn tiếp tục trợ cấp đại trà cho 50 kWh đầu tiên, đồng thời tăng giá điện theo một tỷ lệ cao hơn đối với những hộ gia đình dùng nhiều điện. Cách làm này vừa hiệu quả hơn (nhờ khuyến khích tiết kiệm điện ở những đối tượng sử dụng nhiều điện nhất), vừa công bằng hơn vì căn cứ vào khả năng chi trả của người sử dụng và không làm tiền điện của các hộ nghèo tăng đột biến. Chính phủ đang vận động người dân đồng cam cộng khổ với những khó khăn của nền kinh tế trong thời buổi lạm phát. Thế nhưng để người dân thực sự đồng lòng thì Chính phủ, trong phạm vi có thể kiểm soát được, cũng cần đảm bảo rằng gánh nặng khó khăn được phân bổ một cách công bằng. Đồng thời, Chính phủ cũng cần cải thiện hiệu quả của nền kinh tế để từ đó có cơ sở cải thiện phúc lợi của nhân dân. Trong trường hợp cụ thể của ngành điện, điều này có nghĩa là EVN phải nỗ lực cải thiện hiệu quả hoạt động, giảm tối đa thất thoát, đồng thời giảm tần suất và mức độ nghiêm trọng của tình trạng cắt điện. (Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn 3/3)

Phần 1: Tin công nghiệp
ĐIỆN LỰC
Alstom gia hạn hợp đồng cụm nhà máy điện – khí Phú Mỹ
Tập đoàn Alstom cho biết Alstom và Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Phú Mỹ (Tập đoàn Điện lực Việt Nam) đã nhất trí gia hạn thêm 8 năm hợp đồng dịch vụ cung cấp phụ tùng, dịch vụ bảo dưỡng và chuyên gia cho các thiết bị chính đã lắp đặt tại các Nhà máy nhiệt điện khí Phú Mỹ 2.1 và Phú Mỹ 4 nhằm đảm bảo công suất phát tối ưu. Công ty Nhiệt điện Phú Mỹ đang vận hành 2.485MW, chiếm 12% tổng công suất lắp đặt của toàn hệ thống và 20% sản lượng điện quốc gia. Việc gia hạn hợp đồng cung cấp dịch vụ dài hạn này sẽ giúp các nhà máy điện Phú Mỹ của EVN đạt được công suất tối ưu, nhờ hiệu suất cao của công nghệ nhà máy chu trình hỗn hợp của Alstom; góp phần đảm bảo sản lượng điện của cụm Phú Mỹ được sản xuất ra lớn nhất, nhằm tăng cường cho hệ thống điện trong điều kiện bị thiếu hụt. (Lao Động 5/3)

Thanh Hóa: Đầu tư 13.000 tỷ đồng xây nhà máy nhiệt điện tư nhân
5/3, tại Thanh Hóa, Nhà máy Nhiệt điện Công Thanh do Công ty cổ phần Xi măng Công Thanh làm chủ đầu tư đã được khởi công. Nhà máy được xây dựng với quy mô 2 tổ máy, mỗi tổ có công suất 300MW với sản lượng điện hàng năm 3.900 GWh. Theo kế hoạch, tổ máy đầu tiên vận hành thương mại vào năm 2014, tổ máy thứ hai vận hành thương mại vào năm 2015. Nhà máy có tổng vốn đầu tư 13.000 tỷ đồng. Phát biểu tại lễ khởi công, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải nhấn mạnh, việc một doanh nghiệp tư nhân tham gia xây dựng nhà máy nhiệt điện để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia là điều đáng hoan nghênh. Nhà máy này có ý nghĩa quan trọng vì góp phần giải bài toán thiếu điện ở khu vực Bắc Trung bộ. (Sài Gòn Giải Phóng 7/3)

TPHCM: Điện Hiệp Phước sắp trùm mền
Ông Phạm Hồng Tiến - Trưởng phòng vận hành của Công ty Điện lực Hiệp Phước (HPPC) - nơi cung cấp điện duy nhất cho khu chế xuất Tân Thuận, khu công nghiệp Hiệp Phước và khu đô thị mới Nam Sài Gòn cho biết. Công ty đã hết tiền mua dầu. Nếu đến cuối tháng 3 mà các doanh nghiệp không trả thêm phí nhiên liệu, cơ quan chức năng không hỗ trợ thì nhà máy Hiệp Phước đành ngưng phát điện từ 1/4. Theo ông Tiến, hiện đã có 32 doanh nghiệp trong Khu chế xuất Tân Thuận và Khu công nghiệp Hiệp Phước đồng ý mua điện từ HPPC với giá cao để bù chi phí giá dầu. Mức giá dao động khoảng 15 - 17 cent/kWh, gấp 3 lần so với giá bán hiện tại của HPPC. Tuy nhiên, ông Tiến cho biết theo tính toán, ngay cả khi phân nửa số lượng doanh nghiệp đồng ý trả phụ phí thì vẫn chưa ổn. Nếu 50% tập trung là những khách hàng lớn như xi măng, sắt thép… sử dụng nhiên liệu nhiều thì được, còn nếu chỉ có khách hàng sản xuất nhỏ thì không đủ công suất để các tổ máy tiếp tục phát điện được. (Đất Việt 6/3)

Hai tháng, điện thương phẩm tăng 15,49%
Lũy kế 2 tháng đầu năm, điện thương phẩm thực hiện 14,256 tỷ kWh (kể cả bán cho Lào, Campuchia), tăng 15,49%. Hai tháng đầu năm đã đóng điện 4 công trình lưới điện truyền tải gồm máy biến áp số 2 trạm biến áp 500kV Thường Tín, 220kV Quảng Ngãi, các đường dây 220kV Hải Phòng - Đình Vũ, Nhơn Trạch - Nhà Bè... Do có đợt nghỉ tết Nguyên đán Tân Mão kéo dài (8 ngày), sản lượng điện toàn hệ thống tháng 2 thấp, đạt 7,195 tỷ kWh, trung bình đạt 257 triệu kWh/ngày, tăng 13,47% so cùng kỳ. Điện sản xuất và mua của EVN trong tháng 2 đạt 6,998 tỷ kWh, tăng 13,18% so với cùng kỳ năm trước. Điện thương phẩm thực hiện 6,801 tỷ kWh, tăng 16,31%. Trong đó, điện cho công nghiệp và xây dựng tăng 24,59%, điện cho quản lý và tiêu dùng sinh hoạt tăng 7,71%. (Hà Nội Mới 6/3)

DẦU KHÍ
Đấu giá 90.000 tấn gas
Công ty kinh doanh khí hóa lỏng thuộc Tổng công ty Khí Việt Nam (PV Gas) vừa ký hợp đồng cung cấp 90.000 tấn gas từ Nhà máy Dinh Cố cho các công ty kinh doanh gas thắng trong cuộc đấu giá lần thứ 5. Theo hợp đồng, mỗi tháng PV Gas sẽ cung ứng 15.000 tấn gas cho các công ty này phục vụ thị trường phía Nam, bớt phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu. Trước đây, Nhà máy Dinh Cố dành 50% lượng gas để bán đấu giá, nay đã tăng lên 75%, phần còn lại dành cho công ty thành viên trong Tập đoàn Dầu khí quốc gia VN phát triển thị trường và hệ thống bán lẻ. (Tuổi Trẻ 7/3)

CƠ KHÍ - HÓA CHẤT
Cần 175.000 tỉ đồng để phát triển ngành nhựa
Bộ Công Thương cho biết, Việt Nam cần khoảng 175 ngàn tỉ đồng để đầu tư phát triển ngành nhựa giai đoạn từ 2011-2020. Nguồn vốn này dành cho đầu tư cho xây dựng nhà xưởng, mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ và phát triển nguồn nhân lực cho ngành nhựa. Hiện nay trên cả nước có khoảng có khoảng 1.064 doanh nghiệp nhựa đang hoạt động có vốn từ 500 triệu đồng trở lên, chủ yếu tập trung ở miền Nam, số lượng doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận như Đồng Nai, Bình Dương và Long An chiếm 80%, còn 15% còn lại là ở miền Bắc và miền Trung. Sản phẩm nhựa Việt Nam không chỉ tiêu thụ tại thị trường nội địa mà còn xuất khẩu đến hơn 55 quốc gia và vùng lãnh thổ. Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nhựa của Việt Nam trong năm 2010 đạt khoảng 1 tỉ đô la Mỹ. Tuy nhiên, Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp cho rằng, hạn chế lớn nhất cản trở sự phát triển của ngành nhựa chính là nguồn nguyên liệu chủ yếu phải nhập khẩu. Hiện mỗi năm ngành nhựa cần trung bình 2,2 triệu tấn nguyên liệu các loại như PE, PP, PS …, chưa kể đến hàng trăm loại hóa chất phụ trợ khác. Trong khi đó, khả năng đáp ứng nguyên liệu trong nước mới chiếm khoảng 15%, còn lại 85% nguyên liệu buộc phải nhập khẩu. Do vậy, giá thành sản xuất luôn bị biến động mỗi khi có biến động của tỉ giá ngoại tệ, giá dầu trên thế giới. Bên cạnh đó, số lượng mẫu mã, chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp còn đơn điệu, chưa đáp ứng kịp nhu cầu thị trường. Chưa kể đến vẫn còn tình trạng bao lâu nay, các nhà đầu tư tư nhân ngành nhựa thường tập trung sản xuất những mặt hàng ăn khách nên dẫn đến tình trạng chồng chéo, cạnh tranh lẫn nhau, gây lãng phí về vốn và ít hiệu quả kinh tế. (Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn 5/3)

DỆT MAY – DA GIÀY
Ngành dệt may Việt Nam : Trọng may, quên dệt !
Mặc dù dệt may được coi là ngành xuất khẩu tiên phong, mang lại nhiều giá trị kinh tế. Tuy nhiên, trong ngành vẫn đang tồn tại một nghịch lý, trong khi các doanh nghiệp may mặc phải nhập khẩu vải thì các doanh nghiệp xơ sợi lại đang xuất khẩu một lượng lớn. Bàn về vấn đề này, ông Nguyễn Sơn - Phó chủ tịch Hiệp hội bông sợi cho biết, cùng với ngành may, ngành sợi ở Việt Nam vài năm trở lại đây đã có những bước phát triển vượt bậc. Ngành hiện có khoảng gần 4 triệu cọc sợi với năng lực trên 500 ngàn tấn sợi cắt ngắn/năm.
Giá nguyên liệu cao đang là một xu thế, giá bông thời gian qua cao cũng có yếu tố bất thường là dự trữ bông trong giai đoạn vừa qua xuống quá thấp. Lý do là giai đoạn khủng hoảng, nhu cầu tiêu thụ giảm nên nông dân cắt bỏ diện tích trồng bông chuyển sang trồng bắp, đặc biệt là bắp làm xăng sinh học, dẫn đến sản lượng bông giảm nhiều. Sau khi kinh tế phục hồi, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm may mặc đang tăng mạnh.Theo ông Sơn, tình hình sẽ còn khó khăn, ít nhất cho đến tháng 5 khi bông ở Brazil, Australia, Pakistan... thu hoạch, khi đó áp lực sẽ giảm. Tuy nhiên, khả năng giá bông, xơ sẽ vẫn cao. 150 năm nay mới có đợt giá bông cao như vậy. Trước tình hình hiện nay Hiệp hội thường xuyên liên lạc với các doanh nghiệp để nắm tình hình. Doanh nghiệp vẫn phải mua và tính toán để đảm bảo kinh doanh. Nói về khâu tiêu thụ, ông Sơn cho hay, sợi sản xuất ra hiện nay 2/3 phải xuất khẩu. Trong khi ngành may lại phải nhập tới 5,3 tỷ USD tiền vải từ nước ngoài, nói cách khác là 70% vải phải nhập khẩu. Nguyên nhân do công nghiệp dệt sợi, in, nhuộm trong nước hiện rất yếu. Nếu công nghiệp dệt phát triển tốt thì sợi này có thể chuyển sang các Cty dệt, nhuộm hoàn tất, từ đó tạo ra các sản phẩm vải cao cấp, cung ứng cho các doanh nghiệp, giảm sự lệ thuộc nhập khẩu vải từ nước ngoài. Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì mà đã rất nhiều lần dệt may đưa mục tiêu phát triển, nhưng đến đoạn nhuộm hoàn tất là “tắc”. Hiệp hội vẫn gọi đây là “nút cổ chai” của ngành dệt may. Thực ra nếu bán thì thị trường trong hay ngoài nước đều như nhau, bài toán ở đây là tại sao chúng ta phải nhập khẩu lượng vải lớn như vậy trong khi trong nước chúng ta lại xuất khẩu sợi? Theo ông Sơn lý do ở đây là ngành dệt may đang phát triển mất cân đối, “nút cổ chai” này đang tồn tại nhiều năm nay nhưng ngành vẫn loay hoay chưa giải quyết được. Ở đây nghe có vẻ rất đơn giản, các DN sợi trong nước chỉ cần đầu tư thêm khâu dệt vải, in nhuộm vải... là có thể đáp ứng được nhu cầu trong nước. Tuy nhiên, thực tế việc đầu tư nhà máy in, nhuộm, dệt vải... lại không đơn giản. Muốn để họ đầu tư cần có môi trường thuận lợi, riêng lĩnh vực may mặc phát triển chỉ cần lực lượng lao động đông, chi phí thấp, cơ sở linh hoạt... là đủ. Trong khi đó, lĩnh vực dệt lại rất phức tạp. Thứ nhất là cần lượng vốn lớn, đặc biệt công đoạn in, nhuộm hoàn tất lại liên quan tới vấn đề môi trường, hóa chất thải ra cần phải có hệ thống xử lý nước thải. DN dệt đầu tư máy móc dệt, nhuộm đã rất tốn kém giờ lại phải đầu tư cả khâu xử lý nước thải là một gánh nặng quá lớn với DN, họ không đủ sức làm việc này nếu không có sự hỗ trợ từ Nhà nước. Lý do khiến các doanh nghiệp thích đầu tư nhà máy may hơn dệt là làm may an toàn, vốn đầu tư không nhiều trong khi ngành dệt rủi ro cao hơn, chi phí rất lớn mà lại không hiệu quả. Chẳng hạn dệt phụ thuộc vào giá bông, mà giá bông lên xuống rất thất thường, được mùa hay mất mùa, sản xuất ra sợi có bán được hay không. Rồi in, nhuộm... có quá nhiều công đoạn khiến doanh nghiệp “đau đầu” và phải tính toán, do vậy mà các DN ngại không muốn làm. Trong khi may chỉ có giá vải cộng với chi phí gia công, quản lý là tính được giá thành. (Diễn Đàn Doanh Nghiệp 6/3)

VẬT LIỆU XÂY DỰNG
Chưa đưa vào quy hoạch 14 dự án xi-măng
Bộ Xây dựng vừa kiến nghị Thủ tướng chưa xem xét đưa vào quy hoạch 14 dự án xi măng gồm: Lâm Thao (Phú Thọ), Vĩnh Phúc, Lai Châu và Luksvasi 5 (Thừa Thiên - Huế); Nga Sơn, Cẩm Thủy, Lam Sơn (Thanh Hóa), Thanh Liêm 2, Hoàng Long 2 (Hà Nam); Phú Thành, dây chuyền 2 của xi măng Trung Sơn (Hòa Bình); Tam Điệp 2 (Ninh Bình), Thành Công 2 (Hải Dương); Lục Yên (Yên Bái). Bộ Xây dựng cũng đề nghị với Chính phủ ưu tiên các dự án đầu tư sản xuất clanhke phục vụ cho thị trường tiêu thụ phía Nam, nhằm giảm chi phí vận chuyển từ Bắc vào Nam. Đồng thời ưu tiên các các dự án công suất lớn, công nghệ hiện đại, sau năm 2015 sẽ dừng sản xuất clanhke xi măng công nghệ lò đứng. Không cho phép đầu tư mới đối với dự án có công suất nhỏ hơn 2.500 tấn clanhke/ngày và hạn chế đầu tư các dự án xi măng ở khu vực khó khăn về nguyên liệu, ảnh hưởng đến các di sản văn hóa, phát triển du lịch. Ngoài ra, Bộ cũng khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất xi măng trong nước liên doanh, liên kết hình thành tập đoàn lớn để có điều kiện đổi mới công nghệ và thiết bị, nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm. (Thời Báo Kinh Tế Việt Nam 7/3)

Thép tiếp tục tăng giá
Sáng 4/3, Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên đã công bố bảng báo giá mới áp dụng từ ngày 4/3. Theo đó, giá thép bán ra tại nhà máy chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng dao động từ 15,75-16,55 triệu đồng/tấn tùy loại, tương ứng mức tăng 300.000-400.000 đồng/tấn theo mức giá công bố ngày 1/3. Trước đó, Tổng công ty Thép Việt Nam đã điều chỉnh giá thép tăng thêm 600.000 đồng/tấn áp dụng từ ngày 1/3. Với mức tăng này, giá thép chưa tính thuế dao động từ 16,71-16,92 triệu đồng/tấn. Tương tự, thép Vina Kyoei vừa điều chỉnh giá bán tăng 500.000 đồng/tấn. Trên thị trường, giá thép bán lẻ tại các cửa hàng vật liệu xây dựng dao động từ 18,6-19,2 triệu đồng/tấn tùy loại. (Tuổi Trẻ 5/3)

Vật liệu xây dựng: Giá tăng, sức mua giảm
Đầu năm, sức tiêu thụ đối với các loại vật liệu xây dựng thường không cao. Năm nay, việc hầu hết các mặt hàng đều tăng giá đã khiến cho thị trường này càng yên ắng. Theo ông Lê Văn Tới, Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) giá xăng dầu, điện, những nguyên liệu quan trọng trong quá trình sản xuất vật liệu xây dựng tăng khiến giá bán của các vật liệu này cũng tăng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, ông cũng khuyến cáo các doanh nghiệp cần xem xét lại quá trình sản xuất, sử dụng các công nghệ mới, tiết kiệm tối đa các chi phí không cần thiết để hạ giá thành sản phẩm. Đối với mặt hàng xi măng, ông Nguyễn Văn Điệp - Chánh văn phòng Hiệp hội Xi măng Việt Nam cho hay, hai tháng đầu năm lượng tiêu thụ đối với mặt hàng này chỉ đạt 6,2 triệu tấn, thấp hơn so với mức cùng kỳ năm trước là 7 triệu tấn. “Với tốc độ tăng trưởng tiêu thụ theo dự báo vào khoảng 10% và đạt mức 55- 56 triệu tấn, lẽ ra trong 2 tháng đầu năm 2011, sản lượng tiêu thụ phải đạt khoảng 8 triệu tấn mới là đạt yêu cầu”, ông Điệp nói. Trên thực tế từ đầu tháng hai, một số doanh nghiệp trong ngành xi măng đã điều chỉnh tăng giá thêm 60.000 đồng/tấn và bán ra ở mức từ 900.000 đồng- 1,36 triệu đồng/tấn, tuỳ theo chủng loại và khu vực. Sau khi giá xăng dầu và giá điện chính thức được điều chỉnh tăng, hầu hết các doanh nghiệp vẫn đang trong quá trình xem xét, chưa công bố về mức giá mới. Theo thông tin từ ông Điệp, tới đây khi giá than bán cho sản xuất xi măng tiếp tục tăng thì giá bán của mặt hàng này chắc chắn cũng sẽ bước vào đợt tăng mới. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Văn Kiên - Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Xi măng X18 sức mua trên thị trường hiện nay không cao sẽ khiến các công ty xi măng có quy mô nhỏ với công suất chỉ 100.000 tấn/năm như X18 sẽ rất khó có thể tăng giá bán, thậm chí còn phải đối mặt với thua lỗ do các yếu tố đầu vào liên tục tăng cao. Tương tự đối với mặt hàng kính xây dựng, do sự tăng giá đáng kể của xăng dầu và điện gần đây đã khiến các nhà sản xuất phải chính thức điều chỉnh giá bán từ ngày đầu tiên của tháng 3 từ 15-17%, tuỳ theo sản phẩm. “Điều này cũng đã làm cho sức mua trên thị trường giảm đáng kể so với trước đó”, ông Trần Quang Thái, Chủ tịch Hiệp hội Kính và Thuỷ tinh Việt Nam cho hay. Từ 1/3, các doanh nghiệp sản xuất thép cũng đã chính thức tăng giá bán thêm từ 300.000- 500.000 đồng/tấn. Giá thép xuất xưởng tại các tỉnh miền Bắc đang được bán ra ở mức 17 triệu đồng, còn tại các tỉnh phía Nam là 18- 18,5 triệu đồng/tấn. Khi đến tay người tiêu dùng giá bán vào khoảng gần 20 triệu đồng/tấn. Mặc dù mức tăng của mặt hàng này là khá cao song ông Nguyễn Tiến Nghi, Phó chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cho rằng, lượng tiêu thụ thép trong tháng này sẽ tiếp tục ở mức cao, ước vào khoảng 400.000 tấn, do nhiều khách hàng lo ngại giá thép sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới nên đẩy mạnh việc mua vào để tích trữ. Thực tế trong tháng 2 vừa qua, lượng tiêu thụ thép dù vẫn cao hơn so với cùng kỳ năm trước khi đạt mức khoảng 400.000 tấn, nhưng cũng đã giảm tới 69.000 tấn so với sức mua của tháng trước đó. (Thời Báo Kinh Tế Việt Nam 7/3)

Ô TÔ – XE MÁY
Nhiều hãng ôtô áp dụng bảng giá mới
Trong tháng 3, hàng loạt hãng ôtô như Ford, Honda, Toyota áp dụng mức giá mới, trong đó tăng thấp nhất 13 triệu đồng và cao nhất 173 triệu đồng. Quyết định thay đổi giá bán được đưa ra sau khi tỷ giá thanh toán liên ngân hàng thay đổi từ 19.500 lên 20.900 (tương đương 7,2%). Theo bảng giá mới của hãng Ford, trong số các sản phẩm lắp ráp và nhập khẩu của Ford Việt Nam, mẫu Mondeo 2.3 AT lắp ráp trong nước có mức tăng giá nhiều nhất, khoảng 7% (tăng 66 triệu đồng) và Ranger CBU XL D 4x2 là mẫu có mức tăng thấp nhất (khoảng 37 triệu đồng). Còn các loại xe khác tăng từ 38-52 triệu đồng/xe. Còn hãng Honda chỉ thay đổi khoảng 2-5% mức giá. Phiên bản Honda Accord 3.5 nhập khẩu tăng 50 triệu đồng, chiếc CR-V tăng 51 triệu đồng. Giá mới của hãng Honda áp dụng cho khách hàng mua và nhận xe sau 7/3. Riêng giá Honda Accord có hiệu lực từ ngày 15/3. Hãng Toyota Việt Nam có mức tăng cao nhất. Tăng mạnh nhất là mẫu Land Cruiser nhập khẩu, có mức tăng giá tới 174 triệu đồng, tiếp theo là mẫu Camry lắp ráp trong nước (Camry 3.5Q tăng giá hơn 100 triệu đồng). Các mẫu xe còn lại có mức tăng dao động trong khoảng 40-50 triệu đồng. Bảng báo giá mới của Toyota Việt Nam có hiệu lực với các xe viết hóa đơn từ tháng 3/2011. Theo các doanh nghiệp kinh doanh ôtô thì thị trường ôtô những tháng đầu năm thường ế ẩm, việc các hãng tăng giá sẽ càng ảnh hưởng đến sức mua trong tháng 3. (VOVNews 5/3)

CÔNG NGHIỆP TIÊU DÙNG VÀ CHẾ BIẾN
Vụ tái xuất 45.000 tấn ngô: Tiếp tục kiến nghị khử trùng
Sau khi Bộ NN&PTNT có công văn báo cáo Thủ tướng về việc cho tái xuất 45.000 tấn ngô nhiễm mọt nhập khẩu từ Ấn Độ, Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam cũng có công văn kiến nghị gửi Thủ tướng cho phép khử trùng, ngừng tái xuất lô hàng này. Theo Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam, việc giữ nguyên quyết định tái xuất như đề nghị của Cục BVTV thực chất chỉ là cái lý để cho an toàn về trách nhiệm, song thiệt hại sẽ là rất lớn do không có nguyên liệu, giá thức ăn chăn nuôi sẽ tăng cao, người chăn nuôi thua lỗ, dẫn tới thiếu thực phẩm. Trong trường hợp, Cục BVTV không đủ năng lực khử trùng, Hiệp hội kiến nghị với Thủ tướng cho phép các công ty trong nước hoặc thậm chí các công ty nước ngoài thực hiện việc khử trùng lô hàng này.(Nông Thôn Ngày Nay 7/3)

Sốt” sắn xuất khẩu sang Trung Quốc
Liên tục trong những ngày qua, nhiều thương lái đã đổ xô đến các vùng trồng sắn thuộc các xã An Thọ, An Xuân (huyện Tuy An), Xuân Phước (huyện Đồng Xuân) và Sơn Hội (huyện Sơn Hòa), tỉnh Phú Yên, để thu gom sắn cây giống, tạo nên hiện tượng "sốt giá" sắn. Với giá mua từ 800- 1.000đồng/kg sắn cây hoặc 5.000- 5.500 đồng/kg sắn lát (sắn củ), tăng từ 30- 40% so với mức giá sắn bán ra vào tháng 4/2010 khiến người dân ồ ạt chặt sắn giống để bán. Theo các thương lái, sở dĩ họ thu gom sắn ồ ạt bởi thị trường sắn cây giống, sắn lát ở Trung Quốc đang khan hiếm. Do đó, nên thương lái gom đủ sắn (sắn cây hoặc sắn lát) với mỗi chuyến xe khoảng 10 tấn để xuất sang Trung Quốc từ cảng Quy Nhơn (tỉnh Bình Định). (Thanh Niên 6/3)

Hà Giang: Khởi công xây Nhà máy gỗ công nghiệp
Ngày 6/3, tại huyện Vị Xuyên, Công ty cổ phần Công nghiệp và Xuất nhập khẩu Lâm nghiệp Hà Giang đã khởi công xây dựng Nhà máy chế biến gỗ công nghiệp với tổng vốn đầu tư 420 tỷ đồng. Nhà máy chế biến gỗ công nghiệp Vị Xuyên là một trong những nhà máy chế biến gỗ MDF có quy mô lớn nhất miền Bắc hiện nay với công suất thiết kế 100.000m3 sản phẩm/năm, trong đó dây chuyền sản xuất ván MDF là 80.000m3/năm và dây chuyền sản xuất ván ghép thanh là 20.000m3/năm. Nhà máy được thiết kế theo hướng sử dụng nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Dự kiến nhà máy hoàn thành trong quý I/2012. (Đại Biểu Nhân Dân 7/3)

Kiên Giang: Chế biến thủy sản chỉ hoạt động 70% công suất
Theo Sở Công thương tỉnh, hiện toàn tỉnh có 17 cơ sở đông lạnh thủy sản với tổng công suất thiết kế 114,76 ngàn tấn/năm, tập trung phần lớn tại cảng cá Tắc Cậu và TP. Rạch Giá. Tuy nhiên, do thời gian gần đây diễn biến thời tiết luôn thất thường, nguồn nguyên liệu thủy hải sản đánh bắt khan hiếm đã dẫn đến tình trạng các nhà máy chế biến thủy sản trên địa bàn sản xuất không ổn định, chỉ đủ hoạt động khoảng 70% công suất. Hiện đã có một số doanh nghiệp buộc phải nhập khẩu nguồn nguyên liệu để duy trì sản xuất. (Đại Đoàn Kết 7/3)

Cà Mau: Chế biến thủy sản xuất khẩu thiếu công nhân tay nghề cao
Theo ông Lý Văn Thuận, Thư ký Hội chế biến và Xuất khẩu thủy sản tỉnh Cà Mau, hiện toàn tỉnh có trên 23 nghìn công nhân đang lao động tại 34 nhà máy, xí nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản. Tuy nhiên, hiện có chỉ khoảng 4-5 nghìn công nhân là có trình độ tay nghề khá; số còn lại hầu như chưa được các đơn vị tuyển dụng lao động quan tâm đào tạo bài bản. Tình trạng thiếu lao động trước hết là do sự chuyển dịch lao động từ ngành chế biến thủy sản sang ngành khác và một số lượng lớn đi lao động tại các khu công nghiệp ngoài tỉnh; do thu nhập thấp, không ổn định dẫn đến việc các doanh nghiệp thiếu lao động có có kinh nghiệm, tay nghề giỏi ngày càng gay gắt hơn làm ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất kinh doanh. (Nhân Dân 7/3)

CÔNG NGHIỆP ĐỊA PHƯƠNG
Sản xuất công nghiệp ở Ninh Bình tăng trưởng khá
Từ đầu năm đến nay, sản xuất công nghiệp ở tỉnh Ninh Bình có bước tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước. Trong đó các mặt hàng chế biến nông sản, vật liệu xây dựng, xi-măng, clanh-ke, sắt thép các loại tăng từ 15 đến 20% so cùng kỳ năm trước. Nét nổi bật thời gian qua là các cơ quan quản lý Nhà nước trong tỉnh Ninh Bình đã tích cực cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Hiện nay, tại năm khu công nghiệp của tỉnh Ninh Bình đã cơ bản được phủ kín dự án, một số dự án bước đầu đã đi vào hoạt động giai đoạn 1 và tiếp tục đầu tư giai đoạn 2. (Nhân Dân 7/3)

Thái Nguyên: 2 tháng đầu năm, xuất khẩu tăng 73,6%
Tháng 2, giá trị xuất khẩu trên địa bàn tỉnh ước đạt 7,23 triệu USD, tăng 53% so với cùng kỳ. Tính chung, 2 tháng đầu năm, xuất khẩu trên địa bàn ước đạt 16 triệu USD, tăng 73,6% so với cùng kỳ. Trong đó, xuất khẩu của các đơn vị địa phương quản lý đạt 11,7 triệu USD, tăng 62,8% so với cùng kỳ năm 2010. Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp quốc doanh trung ương và các doanh nghiệp FDI đạt 4,3 triệu USD, tăng gấp 2,1 lần so với cùng kỳ. Những mặt hàng chủ lực xuất khẩu trên địa bàn trong 2 tháng đầu năm có mức tăng từ 30% trở lên so với cùng kỳ là: Sản phẩm may, nhóm công cụ, dụng cụ, quặng và kim loại mầu… (Đại Biểu Nhân Dân 6/3)

QUẢN LÝ KHU CÔNG NGHIỆP - ĐIỂM CÔNG NGHIỆP
102 doanh nghiệp chính thức đầu tư tại Khu kinh tế Vũng Áng
Sau hơn ba năm đi vào hoạt động, tính đến đầu tháng 3 năm 2011, Khu Kinh tế Vũng Áng (Hà Tĩnh) cấp giấy chứng nhận đầu tư và đăng ký kinh doanh cho 102 doanh nghiệp trong và ngoài nước với số vốn lên đến 10 tỷ USD. Hiện nay, đã có nhiều doanh nghiệp đã đi vào hoạt động thu hút nhiều lao động trên địa bàn. Một số dự án có quy mô lớn đang tiếp tục hoàn chỉnh hồ sơ để cấp giấy chứng nhận đầu tư như Nhà máy lọc hóa dầu công suất 16 triệu tấn/năm do Tập đoàn Formosa - Đài Loan đầu tư; Nhà máy luyện thép công suất 2 triệu tấn/năm của Công ty CP Sắt Thạch Khê; Nhà máy Nhiệt điện 2 công suất 1.200 MW do Nhật Bản đầu tư… Khi các dự án lớn đi vào hoạt động sẽ thu hút khoảng 50.000-70.000 lao động, nộp ngân sách hàng chục ngàn tỷ đồng và tạo điều kiện cho Hà Tĩnh trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020. (Nhân Dân 5/3)

Phần 2: Tin Thương mại
XUẤT NHẬP KHẨU
"Việt Nam cung cấp gạo nhiều nhất cho ASEAN"
Nhà nghiên cứu Aat Pisanvanich của trường Đại học Thai Chamber of Commerce cho biết, kể từ năm 2005, Việt Nam đã trở thành nhà cung cấp gạo nhiều nhất cho các nước ASEAN. Giá trị xuất khẩu gạo Việt Nam sang các nước đó năm 2009 đạt 1,3 tỷ USD, so với con số 316 triệu USD của Thái Lan. Ông Aat nói: “Sẽ rất khó có thể cạnh tranh với Việt Nam trên thị trường ASEAN. Thái Lan cần thực hiện các bước giảm giá thành, nâng cao năng suất lúa, đồng thời hướng tới những khách hàng sử dụng gạo có chất lượng cao”. Theo nhà nghiên cứu Aat, Thái Lan có thể mất thêm thị phần gạo ở Đông Nam Á trước Việt Nam, nhất là khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN bắt đầu hình thành vào năm 2015. (Thông Tấn Xã Việt Nam 7/3)

Tháng đầu năm 2011, xuất khẩu gốm sứ đạt 36,7 triệu USD
Theo số liệu thống kê, tháng đầu năm 2011, xuất khẩu mặt hàng sản phẩm gốm sứ của cả nước đạt 36,7 triệu USD, chiếm 0,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 17,65% so với tháng 1/2011. Tháng đầu năm 2011 xuất khẩu hàng gốm sứ có thêm thị trường Trung Quốc với kim ngạch xuất khẩu 96,2 nghìn USD, giảm 50,48% so với tháng cuối năm 2010. Nhìn chung, xuất khẩu sản phẩm gốm sứ sang các thị trường tháng 1/2011 phần lớn đều giảm kim ngạch so với tháng 12/2010. Thị trường giảm mạnh nhất là Tây Ban Nha (giảm 56,64%) đạt 359,5 nghìn USD và thị trường tăng trưởng cao nhất là Canada (tăng 139,61%) đạt 628,1 nghìn USD. (Vinanet 6/3)

Xuất khẩu gạo sang Indonesia tăng 9 lần
Báo cáo của Bộ NN&PTNT cho biết: Trong 2 tháng đầu năm, khối lượng gạo xuất khẩu đã đạt 1,1 triệu tấn, thu về 592 triệu USD (tăng 55,6% về khối lượng và tăng 44,5% về giá trị so với cùng kỳ). Chưa năm nào lượng gạo xuất khẩu giao vào đầu năm lại cao như năm nay. Tuy nhiên, thị trường truyền thống là Philippines chưa khởi động, trong khi đó gạo đang được bán sang các thị trường khác, đặc biệt là Indonesia với khối lượng gấp 9 lần và giá trị gấp 7 lần cùng kỳ năm ngoái. (Nông Thôn Ngày Nay 5/3)

Xuất khẩu chè Việt Nam tăng trưởng mạnh
Ước tháng 2 xuất khẩu đạt 11 ngàn tấn, với giá trị 16 triệu USD, đưa tổng khối lượng xuất khẩu 2 tháng năm 2011 lên 22 ngàn tấn và giá trị lên 32 triệu USD, so với cùng kỳ năm 2010 về lượng tăng 27,4%, kim ngạch tăng 34,3%. Bộ NN&PTNT cho biết, trong 3 thị trường tiêu thụ lớn là Pakixtan, Nga, Đài Loan thì chỉ có thị trường Pakixtan là tăng trưởng mạnh cả về lượng và giá trị (gấp 2 lần so với cùng kỳ). Theo đó, giá xuất khẩu chè tăng nhẹ (6,5% so với cùng kỳ) đạt 1.466 USD/tấn. Trong tháng 1/2011, xuất khẩu chè đạt 11 ngàn tấn với kim ngạch là 16 triệu USD tăng nhẹ về khối lượng (1,6 %) và giá trị tăng 7,3 % so với cùng kỳ năm 2010. Năm 2010, xuất khẩu chè đạt 132 ngàn tấn, với kim ngạch 194 triệu USD. Theo đó, giá chè xuất khẩu bình quân trong năm 2010 đạt 1.469 USD/tấn. Đây là mức giá khá cao mặc dù chưa bằng mức kỷ lục của năm 2008 là 1.520 USD/tấn. Việt Nam hiện là nước sản xuất và xuất khẩu chè lớn thứ 5 thế giới. Một số thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như: Trung Quốc, Các Tiểu vương quốc Arập thống nhất, Arập Xê Út tăng trưởng mạnh, gấp 2 lần cả về lượng và giá trị so với cùng kỳ năm 2009. (Lao Động 5/3)

Xuất khẩu đồ gỗ sang Pháp giảm nhẹ
Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu gỗ của Việt Nam sang Pháp trong vòng 5 năm qua tăng trưởng đều, tuy nhiên năm 2008 là kim ngạch đạt mức cao nhất trong vòng 5 năm, đạt 101,31 triệu USD. Riêng tháng 1 năm 2011, Việt Nam xuất khẩu mặt hàng này sang Pháp đạt 11,51 triệu USD, giảm nhẹ 1,72 so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng giảm hơn 30% so với tháng 12 năm ngoái. (Website Thị Trường Nước Ngoài 5/3)

THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC
Thêm hãng sữa ngoại tăng giá
Thêm nhiều hãng sữa ngoại điều chỉnh tăng giá bắt đầu từ tháng 3/2011. Các đại lý kinh doanh sữa cho biết trong ngày 4/3 đã nhận thêm thông báo giá của các hãng sữa XO, Milex và Enfa. Theo đó, các dòng sữa Enfa của Hãng Mead Johson tăng bình quân 10-12%, sữa XO tăng 10% và Hãng Milex tăng 10-12%. Với mức tăng này, trung bình một hộp sữa người dân phải mua đắt hơn 30.000-40.000 đồng so với trước. Trong thông báo tăng giá, lý do được nhà cung cấp đưa ra do yếu tố tỉ giá, giá nguyên liệu đầu vào tăng. (Tuổi Trẻ 5/3)

XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI
Nhiều hoạt động quảng bá hàng nông sản Việt Nam
Ngày 4/3, đoàn xúc tiến thương mại của Bộ NN&PTNT do Thứ trưởng Hồ Xuân Hùng dẫn đầu đã kết thúc chuyến thăm và làm việc tại Nhật Bản từ ngày 1-4/3. Mục đích chuyến thăm là quảng bá các sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là thủy sản, của Việt Nam tại thị trường đầy tiềm năng này. Trong chuyến thăm, đoàn đã tham gia trưng bày và giới thiệu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam tại Hội chợ Triển lãm Thực phẩm Quốc tế lần thứ 36 (Foodex Japan 2011) ở tỉnh Chiba, phía Đông thủ đô Tokyo. Đây là hội chợ hàng nông sản và thực phẩm thường niên lớn nhất ở Nhật Bản, với hơn 3.000 gian hàng từ gần 60 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đoàn cũng đã phối hợp với Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản tổ chức hội thảo “Tăng cường hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản về thương mại nông-thủy sản” tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế thuộc tỉnh Chiba. Hội thảo đã thu hút gần 300 đại biểu đến từ các viện nghiên cứu, ngân hàng, doanh nghiệp môi giới, sản xuất kinh doanh và phân phối nông sản của nước sở tại. Đây là cơ hội để các nhà hoạch định chính sách cũng như các doanh nghiệp của Việt Nam tìm hiểu và lắng nghe ý kiến từ một thị trường luôn yêu cầu chất lượng cao như Nhật Bản. (Thông Tấn Xã Việt Nam 5/3)

QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG
Xăng dầu tăng giá, buôn lậu vẫn tiếp diễn
Ông Phan Lợi, Chi cục phó Chi cục Quản lý thị trường tỉnh An Giang cho biết, từ đầu tháng 2 đến nay, các lực lượng chống buôn lậu của An Giang đã phát hiện 17 vụ buôn lậu xăng dầu qua biên giới Campuchia, tịch thu 5.875 lít, trong đó xăng chiếm 2.670 lít. Theo ông Lợi, trước khi xăng dầu chưa tăng giá, giá xăng của Việt Nam rẻ hơn Camphuchia từ 2.400 đến 5.600 đồng/lít. Sau khi xăng tăng giá vào cuối tháng 2/2011, mức chênh lệch còn từ 1.500 đến 2.500 đồng/lít, riêng dầu DO vẫn còn chênh lệch 800-1.000 đồng/lít. Với mức chênh lệch này, tình trạng xăng dầu chảy ngược qua biên giới vẫn tiếp diễn và khó xử lý do đối tượng vi phạm sử dụng phương tiện ghe thuyền và hoạt động vào ban đêm. Để ngăn chặn nguồn nhiên liệu chảy qua biên giới, ngành Công Thương tỉnh An Giang đã kiến nghị với chính quyền tỉnh này cần sớm có chế tài với các trạm kinh doanh xăng dọc biên giới như chỉ cho phép bán hàng từ 6 đến 18 giờ trong ngày, bán có định mức, không bán số lượng nhiều cho khách hàng không có mục đích sử dụng rõ ràng. (Báo Công Thương Online 5/2)

Giá sữa trong siêu thị cao hơn thị trường
Để giữ khách, một số đại lý kinh doanh sữa tự động hạ chiết khấu, giảm giá bán cho khách. Ví dụ một hộp sữa Enfagrow 900g giá đại lý nhập vào 301.000 đồng, giá đề nghị của công ty khoảng 313.000 đồng/hộp, nhưng để tăng tính cạnh tranh giữa các cửa hàng, người bán sẽ tự cắt giảm chiết khấu và bán với giá khoảng 308.000 đồng/hộp. Trong khi tại các siêu thị, do chi phí bảo quản các mặt hàng sữa bột khá cao nên thường bán theo giá đề nghị của nhà phân phối (mức giá bán ra cao nhất). Vì vậy mới có trường hợp giá sữa Abbott mua bên ngoài chỉ khoảng 546.000 đồng/hộp 900g nhưng vào siêu thị lại có giá từ 552.000 đồng/hộp, một số siêu thị bán 592.000 đồng/hộp. (Tuổi Trẻ 7/3)

DOANH NGHIỆP - THƯƠNG HIỆU
Doanh nghiệp xoay xở trong “bão” giá
Tỷ giá, lãi suất, và giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng mạnh đã tác động lớn đến doanh nghiệp. Ông Nguyễn Đỗ Hà - Tổng Giám đốc nhà máy sứ Hải Dương cho biết: Nhà máy có may mắn là vừa hoàn tất quá trình tái cơ cấu với điểm nhấn là cắt giảm tối đa chi phí. Cho nên hiện tại có thể nói chúng tôi chưa bị ảnh hưởng gì nhiều. Nhất là về vốn, chúng tôi có thặng dư nên không phải vay ngân hàng. “Nặng” nhất trong đầu vào nguyên liệu sản xuất của chúng tôi là gas chiếm tới 40% chi phí (để đốt lò) thì rất may vừa rồi giá gas đã giảm mạnh so với tháng trước. Về chi phí lương, do có những đơn hàng ổn định cùng tác động của lạm phát nên chúng tôi xác định là sẽ tăng thêm cho người lao động chứ không hề giảm đi. Nói chung, trong 100% giá thành thì chỉ có 30% chi phí có tăng, còn lại 70% giảm cho nên giá bán sản phẩm cũng sẽ chưa có điều chỉnh. Hiện thị phần sứ Hải Dương ở miền Bắc chiếm từ 2-25%. Theo ông Đặng Quốc Dũng - Chủ tịch HĐQT- Tổng Giám đốc Cty cổ phần Nhựa Thiếu niên Tiền phong phía Nam, tính đến thời điểm này, giá nguyên liệu hạt nhựa sản xuất của chúng tôi đã tăng từ hơn 1.000 USD lên tới 1.200 USD/tấn trong khi giá bán sản phẩm vẫn giữ nguyên. Vốn sản xuất của công ty đa phần là vốn lưu động vay các ngân hàng như ACB, Sacombank, MB. Hiện với mức lãi vay đã lên tới 19,5%/năm (đấy là còn được ưu tiên) thì chúng tôi cũng chỉ dám cầm cự thêm một thời gian nữa là phải tính đến điều chỉnh giá. Trong kế hoạch 2011 mà HĐQT vừa đề ra chúng tôi xác định phải đạt được lợi nhuận (dù không nhiều). Về bài toán quản trị, sẽ không có chuyện cắt giảm nhân sự vì bộ máy sản xuất đã tinh gọn tối đa (150 người). Về lương tôi cũng vừa ký tăng một loạt do giá cả tiêu dùng đang ảnh hưởng đến đời sống của hết thảy mọi người. Với doanh nghiệp chuyên kinh doanh lĩnh vực tài chính, ông Nguyễn Đình Lâm-Chủ tịch HĐQT Tổng cty Tài chính Dầu khí PVFC, nói: “Ưu tiên số 1 là tái cấu trúc lại doanh nghiệp”. Ông Lâm cho biết, hoạt động chính của PVFC là cho vay sản xuất cho nên chúng tôi xác định phải hỗ trợ kịp thời cho doanh nghiệp. Cụ thể, chúng tôi sẽ đánh giá lại toàn bộ khách hàng để kiểm tra hỗ trợ cho vay, tham gia vào hỗ trợ tài chính, cơ cấu doanh nghiệp. Về phía PVFC cũng đang xây dựng đề án tái cấu trúc lại cho mình. Hiện tại để đánh giá bị tác động thế nào của thị trường ngay rất khó. Nhưng về cơ bản chúng tôi sẽ giảm chi phí, hoạt động bộ máy, tái cấu trúc lại tài sản hiện có, danh mục đầu tư. (Tiền Phong 5/3)

CẠNH TRANH - BẢN QUYỀN - SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Nâng cao năng lực cạnh tranh cho DN duyên hải phía Bắc
Hội nghị doanh nghiệp miền duyên hải phía Bắc năm 2011 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - Chi nhánh Hải Phòng phối hợp với UBND tỉnh Hải Dương tổ chức đã diễn ra ngày 4/3. Hơn 1.000 doanh nghiệp các tỉnh phía Bắc đã tham dự. Tại hội nghị, nhiều doanh nghiệp cho rằng còn nhiều chế độ, chính sách chưa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay, như việc hoàn vốn VAT còn chậm khiến doanh nghiệp khó khăn trong quay vòng vốn; doanh nghiệp vừa và nhỏ khó tiếp cận nguồn vốn ưu đãi; chưa ổn định được giá ngoại tệ; quy định về tải trọng xe tải lưu thông trên đường chưa hợp lý... Để giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, năm 2011, nhiệm vụ trọng tâm của phòng Thương mại và Công nghiệp cùng các tỉnh, thành phố khu vực miền duyên hải phía Bắc là giúp các doanh nghiệp phát triển bền vững, gắn với bình ổn thị trường. Cụ thể, tìm mọi cách giảm chi phí đầu vào, tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Các tỉnh, thành cần phối hợp với Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam đề xuất với Chính phủ, các bộ, ngành có chính sách phù hợp hỗ trợ doanh nghiệp phát triển. Tổ chức nhiều lớp đào tạo, nâng cao kiến thức cho các doanh nghiệp; đào tạo nguồn nhân lực; áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động doanh nghiệp. Khẩn trương hoàn thiện Trung tâm Xúc tiến thương mại miền duyên hải ở TP Hải Phòng, làm nơi giao lưu, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, hoạt động thương mại cho các doanh nghiệp… (Pháp Luật TPHCM 5/3)./.