- Tốc độ tăng trưởng kinh tế: Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 đã cho thấy Chính phủ đang thực sự quyết tâm với mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô thay vì theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế như nhiều năm trước. Cùng với các giải pháp như thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng; chính sách tài khóa thắt chặt thông qua việc cắt giảm chi tiêu công, đầu tư từ ngân sách… tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm đã bị ảnh hưởng khá lớn. Mặc dù thấp hơn nhiều mức 6,16% của 6 tháng đầu năm 2010, nhưng tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2011 đạt được mức 5,57% cũng là hợp lý và khả quan trong bối cảnh hiện nay.
- Tình hình tài chính tiền tệ: thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, các mức lãi suất điều hành đã được NHNN liên tục điều chỉnh tăng trong 6 tháng đầu nămTheo đó, lãi suất huy động và cho vay cũng liên tục được các ngân hàng thương mại điều chỉnh tăng, mặc dù NHNN khống chế trần lãi suất huy động (ở mức 14%/năm) nhưng hầu hết các ngân hàng đã huy động vượt trần thông qua thỏa thuận lãi suất với khách hàng (nhiều ngân hàng đã có lãi suất huy động lên đến 18-19%/năm), lãi suất cho vay cũng vì thế đã tăng mạnh, mức lãi suất cho vay đến tháng 6 đã ở mức 17-19%/năm cho lĩnh vực nông nghiệp, sản xuất, xuất khẩu và 22-25%/năm đối với lĩnh vực phi sản xuất. Lãi suất tăng cao đã làm tăng chi phí sử dụng vốn của các doanh nghiệp và làm tăng giá thành của hàng hóa dịch vụ xã hội nói chung, nhiều doanh nghiệp có năng lực tài chính không vững đã đi đến phá sản trong giai đoạn vừa qua.
Thị trường ngoại hối: Nhờ các biện pháp hiệu quả trong điều hành của Chính phủ, thị trường ngoại hối 6 tháng đầu năm đã có chuyển biến tích cực, trạng thái ngoại tệ của các ngân hàng thương mại được cải thiện, tâm lý thị trường ổn định, lượng ngoại tệ các ngân hàng thương mại mua được lớn hơn nhiều so với lượng ngoại tệ bán ra, tỷ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng có xu hướng giảm và tương đối ổn định.
Như vậy có thể nói, thị trường tài chính tiền tệ 6 tháng đầu năm nhìn chung vận hành theo đúng định hướng điều hành của Chính phủ. Tính đến ngày 10/6/2011, mức tăng tổng phương tiện thanh toán là 2,33% so với cuối năm 2010; tăng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế là 7,05%, trong đó tín dụng VND tăng 2,72%, tín dụng bằng ngoại tệ tăng 22,21%. Tỷ giá USD/VND ổn định quanh mức tỷ giá bình quân liên ngân hàng và nguồn cung ngoại tệ khá dồi dào.
- Tình hình xuất nhập khẩu: Do chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những bất lợi chung của kinh tế thế giới, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm cũng gặp không ít khó khăn. Giá hàng hóa thế giới tăng đã làm tăng kim ngạch nhập khẩu, mặc dù cũng có tác động tăng kim ngạch xuất khẩu nhưng một số mặt hàng lượng xuất khẩu đã bị giảm do nhu cầu giảm khi giá tăng. Một số nhóm hàng xuất khẩu có lượng và kim ngạch đều tăng, nhưng nguyên liệu đầu vào phải nhập khẩu nên giá trị xuất khẩu ròng cũng không tăng nhiều. Tuy nhiên, cũng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn nên nhiều hàng hóa nông sản, hàng tiêu dùng giá rẻ của Việt Nam lại có sức cạnh tranh tốt hơn các nước khác.
Qua 6 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 42,33 tỷ USD, tăng 30,3% so với cùng kỳ năm 2010, trong đó kim ngạch hầu hết các nhóm hàng đều tăng khá mạnh (nhóm nông, thuỷ sản tăng 44,7%; nhóm nhiên liệu, khoáng sản tăng 26,3%, nhóm công nghiệp chế biến tăng 26,7%). Kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm là 48,98 tỷ USD, tăng 25,8% so với cùng kỳ năm 2010, trong đó chủ yếu tăng ở nhóm hàng cần nhập khẩu (tăng 25,5%), nhóm hàng cần kiểm soát (tăng 41,6% nhưng kim ngạch không cao), riêng nhóm hàng cần hạn chế chỉ tăng 8,3%. Như vậy, tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu 6 tháng là 15,72% vẫn đang trong giới hạn chỉ tiêu Chính phủ đề ra.
- Thị trường hàng hóa: Với các chính sách nhằm mục tiêu cắt giảm tổng cầu để kiềm chế lạm phát của Chính phủ, thị trường hàng hóa 6 tháng đầu năm nhìn chung kém sôi động, nổi bật lên trên hết là hiện tượng tăng giá của hầu hết các nhóm hàng hóa, dịch vụ, thị trường đã hình thành một mặt bằng giá mới cao hơn khá nhiều so với cùng kỳ năm trước. Nhiều hàng hóa đã rơi vào tình trạng dư cung, tuy nhiên, do chi phí sản xuất cao nên giá hàng hóa không thể giảm. Bên cạnh đó, một số mặt hàng thực phẩm thiết yếu như thịt gia súc, gia cầm… do ảnh hưởng của dịch bệnh, nguồn cung giảm nên đã tăng giá mạnh hơn các mặt hàng khác. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội 6 tháng đầu năm đạt 911.733 tỷ đồng, tăng 22,6% so với cùng kỳ năm 2010, nhưng nếu loại trừ yếu tố tăng giá, mức tăng này chỉ còn 5,7%, thấp hơn nhiều so với mức 15-17% của các năm trước.
- Tình hình lạm phát: Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng hàng hóa 6 tháng đầu năm 2011 đã tăng 13,29% so với tháng 12/2010, đây là mức tăng khá cao so với cùng kỳ của nhiều năm thông thường trước đây (6 tháng đầu năm 2005 tăng 5,2%, 2006 tăng 4,4%, 2007 tăng 5,2%, 2009 tăng 2,68%, năm 2010 tăng 4,46%). Nếu tính chỉ số giá bình quân 6 tháng đầu năm so với 6 tháng đầu năm 2010, mức tăng đã là 16,03% và so tháng 6/2011 với tháng 6/2010 mức tăng còn lên đến 20,82%.

Nhìn vào đồ thị có thể thấy, mặc dù mức độ tăng giá qua các tháng đã bắt đầu có xu hướng giảm từ tháng 5, nhưng nếu nhìn vào chỉ số giá bình quân và chỉ số giá theo năm (so với cùng kỳ) thì vẫn thấy rõ xu hướng tăng, điều đó cũng có nghĩa rằng, bức tranh lạm phát hiện chưa thực sự khả quan. Để chỉ số giá theo năm ở tháng 12/2011 về mức 15% như mục tiêu Chính phủ đề ra, các biện pháp kiềm chế lạm phát cần tiếp tục được triển khai quyết liệt hơn và có sự đồng bộ hơn giữa các chính sách tiền tệ và tài khóa.
II. CÁC YẾU TỐ CHÍNH TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ GIA TĂNG CỦA CPI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2011
Trong phiên họp Chính phủ thường kỳ cuối tháng 5/2011, Chính phủ đã thống nhất điều chỉnh chỉ tiêu lạm phát năm 2011 từ mức 7% lên mức 15%, tuy nhiên mới hết 6 tháng đầu năm, con số này đã đạt 13,29%, đây là mức tăng khá cao so với nhiều năm và so với các nước trong khu vực. Nguyên nhân của sự gia tăng này bao gồm cả các yếu tố khách quan và chủ quan.
Phân tích trong cơ cấu chỉ số giá tiêu dùng 6 tháng đầu năm thấy rõ 02 nhóm có mức tăng cao nhất và có sự đóng góp vào mức tăng chung khá lớn là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (chiếm tỷ trọng 39.93%) và nhóm giao thông (chiếm tỷ trọng 8,87%) với mức tăng lần lượt là 18,68% và 18,74%, trong đó riêng nhóm thực phẩm tăng 22,21% (với tỷ trọng 24,35%). Tiếp đến là nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 14,73% (cao hơn mức tăng chung) do nhóm này có các mặt hàng như điện, nước, gas, than, vật liệu xây dựng, tiền thuê nhà là những nhóm hàng có sự điều chỉnh tăng giá khá mạnh trong 6 tháng đầu năm. Các nhóm hàng còn lại có mức tăng không cao so với mức tăng chung (chỉ tăng từ 3,91-7,98%), riêng nhóm bưu chính viễn thông tiếp tục giảm 1,72%.
Từ phân tích cơ cấu chỉ số giá 6 tháng ở trên, có thể thấy, các yếu tố chính tác động đến lạm phát 6 tháng đầu năm 2011 bao gồm:
- Các yếu tố khách quan:
+ Giá nhiều loại hàng hóa nguyên, nhiên vật liệu chủ chốt như xăng dầu, phôi thép, khí dầu mỏ... trên thị trường thế giới tăng cao đã tác động đến giá xăng dầu, thép xây dựng, gas, phân bón... trong nước tăng cao. Ngoài ra, giá vàng trên thị trường thế giới tăng cũng khiến giá vàng trong nước tăng mạnh gây tâm lý tăng giá lan tỏa sang các hàng hóa tiêu dùng khác trên thị trường.
+ Dịch bệnh trên vật nuôi lan rộng và kéo dài (có thời kỳ cả nước có 30/63 tỉnh thành có dịch bệnh) làm giảm mạnh nguồn cung thực phẩm và gia tăng chi phí chăn nuôi. Ngoài ra, tình hình thời tiết khắc nghiệt trong một số giai đoạn (rét đậm hồi đầu năm, nắng nóng và mưa lớn giữa năm) cũng ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông nghiệp và vì vậy ảnh hưởng đến nguồn cung nông sản thực phẩm tại một số thời điểm gây tăng giá hàng hóa.
+ Sức hút từ thị trường các nước lân cận (Trung Quốc, Lào, Campuchia) do chênh lệch giá một số mặt hàng khi trong nước thực hiện các chính sách bình ổn giá. Thời gian qua, nhiều mặt hàng, nhất là ở các mặt hàng lương thực, xăng dầu, thực phẩm như thịt lợn, thủy sản, đã bị thu gom và xuất khẩu qua biên giới cũng góp phần làm mất cân đối nguồn cung hàng hóa trong nước.
- Các yếu tố chủ quan, nội tại của nền kinh tế.
+ Việc điều chỉnh tăng giá theo lộ trình của một số mặt hàng trọng yếu của nền kinh tế như điện, than và việc tăng lương tối thiểu ở các lĩnh vực lao động.
+ Những yếu tố tiền tệ: tỷ giá tăng trong 2 tháng đầu năm và lãi suất vay vốn ngân hàng tăng cao do thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ cũng làm tăng giá cả hàng hóa. Ngoài ra, việc thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng trong một thời gian dài trước đây đã làm cho cung tiền trên thị trường chưa thể giảm ngay sau khi thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP (theo số liệu của ADB, cung tiền của Việt Nam đã tăng bình quân 31,2% mỗi năm trong giai đoạn 2000-2009, và tăng 27% trong năm 2010).
+ Việc thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt nhưng chưa phát huy tác dụng đồng bộ với chính sách tiền tệ chặt chẽ (do chính sách tài khóa thường có độ trễ dài hơn chính sách tiền tệ) nên tổng cầu của nền kinh tế chưa thể giảm nhanh.
III. DỰ BÁO 6 THÁNG CUỐI NĂM
Với diễn biến của kinh tế thế giới nói chung và kinh tế trong nước nói riêng như hiện nay, một số chỉ tiêu kinh tế mà Chính phủ đề ra như tăng trưởng GDP khoảng 6%; nhập siêu dưới 16%; tăng trưởng tín dụng dưới 20%, tăng tổng phương tiện thanh toán dưới 15%; cắt giảm chi ngân sách 10%... nếu các Bộ ngành, địa phương triển khai quyết liệt các giải pháp nêu trong Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/2/2011, có thể các chỉ tiêu trên sẽ đạt được, tuy nhiên, riêng chỉ tiêu lạm phát ở mức 15% là rất khó đạt được. Trong 6 tháng đầu năm, CPI đã tăng 13,29%, như vậy để đạt được mục tiêu đề ra, 6 tháng cuối năm, CPI chỉ được phép tăng 1,71%, điều này là rất khó trong điều kiện thị trường hàng hóa sẽ còn chịu tác động bởi các yếu tố sau:
- Những yếu tố gây sức ép làm tăng giá:
+ Giá nhiều loại hàng hóa trên thị trường thế giới đang có xu hướng tăng vào dịp cuối năm (giá các sản phẩm dầu mỏ có thể tăng vào mùa lạnh; giá lương thực thế giới có thể tăng sau bầu cử của Thái Lan...) cùng với tình trạng lạm phát tiếp tục gia tăng tại nhiều nước sẽ gây tình trạng tăng giá lan tỏa của hàng hóa qua biên giới;
+ Nguồn cung thực phẩm chưa thể nhanh chóng phục hồi do cần có độ trễ nhất định để tái sản xuất sau dịch bệnh. Ngoài ra, dịch bệnh, giá thức ăn chăn nuôi, lãi suất vay vốn ngân hàng tăng cao cũng đang hạn chế người dân tái đàn, mở rộng chăn nuôi;
+ Khả năng giá điện tiếp tục được điều chỉnh tăng để bù đắp chi phí tăng;
+ Lãi suất vẫn ở mức cao, tỷ giá sau thời gian ổn định có thể tăng nhẹ vào cuối năm khi nhu cầu nhập khẩu hàng hoá tăng;
+ Mùa mưa bão có thể gây ảnh hưởng nguồn cung hàng hóa, dẫn đến tăng giá cục bộ tại một số địa phương;
+ Chu kỳ tăng giá hàng hóa vào cuối năm.
- Bên cạnh các yếu tố gây sức ép tăng giá, thị trường hàng hóa cũng sẽ có các yếu tố tích cực, hạn chế được sự tăng giá hàng hóa:
+ Giá dầu thô trên thị trường thế giới đang diễn biến tương đối ổn định;
+ Nguồn cung các mặt hàng lương thực, thực phẩm sẽ gia tăng trong thời gian tới (khi vào các vụ thu hoạch và khi hoạt động chăn nuôi đến thời gian xuất bán sau dịch bệnh);
+ Lãi suất ngân hàng bắt đầu có xu hướng hạ dần;
Phân tích từ các yếu tố trên cùng với việc tiếp tục thực hiện quyết liệt và đồng bộ chính sách tiền tệ chặt chẽ, chính sách tài khóa thắt chặt và các biện pháp kiểm tra, kiểm soát thị trường theo tinh thần của Nghị quyết 11/NQ-CP, dự kiến CPI cả năm 2011 sẽ ở mức khoảng 17%.