Tính tất yếu của phòng vệ thương mại
Phòng vệ thương mại là những biện pháp ngăn chặn, hạn chế áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu từ nước này sang nước kia và được nước nhập khẩu áp dụng. Phòng vệ thương mại được quy định trong nhiều Hiệp định về thương mại như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) năm 1994, các Hiệp định chống bán phá giá, Hiệp định về các biện pháp tự vệ, Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)… Phòng vệ thương mại là một phần trong chính sách thương mại của quốc gia. Phòng vệ thương mại có mục đích nhằm bảo vệ các ngành công nghiệp nội địa khỏi các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Các biện pháp phòng vệ thương mại bao gồm biện pháp chống bán phá giá, biện pháp chống trợ cấp và biện pháp tự vệ.
Trong thương mại quốc tế, các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ được coi là ba cột trụ của hệ thống các biện pháp phòng vệ thương mại và được áp dụng để bảo vệ thị trường trong nước trước sự thâm nhập nhập của hàng hóa nước ngoài. Trong bối cảnh tự do hóa thương mại ngày càng phát triển như hiện nay, khi các hiệp định thương mại tự do được ký kết ngày càng nhiều, các rào cản thuế quan theo đó dần được dỡ bỏ, dẫn đến lượng hàng hóa nhập khẩu ngày càng gia tăng đã gây tác động mạnh tới các ngành sản xuất trong nước của các quốc gia nhập khẩu. Điều này bắt buộc các quốc gia nhập khẩu tăng cường sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại, đồng thời các quốc gia xuất khẩu cũng phải đối phó mạnh hơn với các biện pháp phòng vệ thương mại mà các cơ quan điều tra nước ngoài áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu của quốc gia mình.
Các công cụ phòng vệ thương mại và tác động
Biện pháp phòng vệ thương mại là các công cụ chính sách thương mại được Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cho phép các nước thành viên áp dụng để bảo vệ ngành sản xuất trong nước khỏi thiệt hại do sự gia tăng của hàng nhập khẩu. Các biện pháp phòng vệ thương mại bao gồm 3 loại: biện pháp chống bán phá giá giá, biện pháp chống trợ cấp và biện pháp tự vệ. Điểm chung của ba loại biện pháp này là chỉ được áp dụng khi các hiện tượng/hành vi trên gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến ngành sản xuất trong nước của nước nhập khẩu.
Các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ được coi là ba cột trụ của hệ thống các biện pháp phòng vệ thương mại trong thương mại quốc tế và được sử dụng như một chiếc “van an toàn” để bảo vệ thị trường trong nước trước sự thâm nhập của hàng hoá nước ngoài. Về bản chất, biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp được áp dụng để đối phó với hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay không công bằng của hàng hóa nhập khẩu. Trong khi biện pháp chống bán phá giá là để đối phó với hành vi bán sản phẩm với giá thấp nhằm chiếm lĩnh thị trường và tiến tới loại bỏ dần các đối thủ cạnh tranh thì biện pháp chống trợ cấp được áp dụng để loại bỏ tác động tiêu cực gây ra cho ngành sản xuất hàng hóa trong nước xuất phát từ các chính sách trợ cấp của chính phủ nước xuất khẩu. Khác với hai biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp, biện pháp tự vệ thường được nói đến như một công cụ bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trong nước trong trường hợp khẩn cấp nhằm hạn chế những tác động không thuận lợi gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước do tình trạng gia tăng bất thường của hàng hóa nhập khẩu.
Trong thương mại quốc tế, bán phá giá là hành vi xuất khẩu hàng hóa với giá thấp hơn giá bán của mặt hàng đó tại thị trường nội địa nước xuất khẩu. Theo quy định WTO, trong trường hợp ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể gây ra bởi hàng hóa nhập khẩu bị bán phá giá, nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá để bảo vệ ngành sản xuất nội địa. Biện pháp chống bán phá giá áp dụng khi doanh nghiệm sản xuất, xuất khẩu nước ngoài bán hàng hóa xuất khẩu thấp hơn giá của hàng hóa tương tự được bán tại thị trường của nước xuất khẩu. Thuế chống bán phá giá là hình thức phổ biến nhất trong số các biện pháp chống bán phá giá, áp dụng đối với hàng hóa thuộc đối tượng điều tra và bị kết luận là có hành vi bán phá giá vào nước nhập khẩu gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa. Thực tế, thuế chống bán phá giá là khoản thuế nhập khẩu bổ sung đánh vào hàng hóa thuộc đối tượng áp thuế.
Cũng theo quy định của WTO, biện pháp trợ cấp là hình thức hỗ trợ tài chính của Nhà nước hoặc một tổ chức công (trung ương hoặc địa phương) mang lại lợi ích cho doanh nghiệp/ngành sản xuất. Biện pháp chống trợ cấp áp dụng khi chính phủ của nước xuất khẩu cung cấp tài chính hỗ trợ cho doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu. Thuế chống trợ cấp (còn gọi là thuế đối kháng) là khoản thuế bổ sung (ngoài thuế nhập khẩu thông thường) đánh vào sản phẩm nước ngoài được trợ cấp nhập khẩu vào nước nhập khẩu.
Khác với hai biện pháp trên, biện pháp tự vệ là công cụ khẩn cấp nhằm loại bỏ trước mắt những thiệt hại do tình trạng gia tăng bất thường của hàng hóa nhập khẩu. Hay nói cách khác biện pháp tự vệ là việc tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với hàng hoá khi việc nhập khẩu chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. Biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hoá, không áp dụng đối với dịch vụ, đầu tư hay sở hữu trí tuệ. Biện pháp này có thể được áp dụng dưới nhiều hình thức khác nhau như thuế tự vệ (tương đối hoặc tuyệt đối), hạn ngạch, hạn ngạch thuế quan.
Quy định về phòng vệ thương mại của WTO
Để áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại, nước thành viên WTO phải tiến hành một cuộc điều tra theo các nguyên tắc, quy trình, thủ tục được quy định trong các hiệp định liên quan của Tổ chức Thương mại thế giới. Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1994) do các thành viên WTO thống nhất nêu rõ các biện pháp phòng vệ thương mại được quy định chi tiết tại Điều IV, XVI và XIX. Cụ thể, WTO cũng ban hành các Hiệp định riêng quy định chi tiết với từng biện pháp phòng vệ thương mại:
Hiệp định Chống bán phá giá
Hiệp định Chống bán phá giá của WTO cho phép các thành viên áp dụng các biện pháp chống bán phá giá nếu hàng nhập khẩu bán phá giá đó gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất nội địa của nước mình. Hiệp định đưa các qui tắc liên quan đến phương pháp xác định một mặt hàng bị bán phá giá, các tiêu chí cần xem xét khi cho rằng hàng nhập khẩu bán phá giá gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa, các qui trình cần phải tuân thủ trong việc khởi xướng và tiến hành điều tra chống bán phá giá cũng như việc thực thi và gia hạn các biện pháp chống bán phá giá.
Hiệp định yêu cầu các thành viên phải thông báo chi tiết và kịp thời tất cả các quyết định chống bán phá giá tạm thời hay chính thức tới Ủy ban Thực thi Chống bán phá giá. Hiệp định cũng tạo cơ hội cho các bên tham vấn về bất cứ vấn đề nào liên quan đến việc thực thi hiệp định, cũng như việc yêu cầu thành lập Ban hội thẩm xem xét giải quyết tranh chấp theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng
Hiệp định này quy định 3 loại trợ cấp: trợ cấp bị cấm, trợ cấp có thể đối kháng, và trợ cấp không thể đối kháng. Một phần của hiệp định này liên quan đến việc áp dụng những biện pháp đối kháng đối với hàng nhập khẩu được trợ cấp (trợ cấp bị cấm). Hiệp định đưa ra những quy chế về việc khởi xướng các vụ kiện, việc điều tra bởi các cơ quan có thẩm quyền cấp quốc gia và những quy định về chứng cứ để đảm bảo rằng tất cả những bên có quyền lợi có thể đưa ra thông tin và quan điểm của mình.
Những quy định cụ thể về việc tính toán tổng số trợ cấp là cơ sở để xác định thiệt hại đối với ngành công nghiệp nội địa. Hiệp định quy định rằng tất cả các yếu tố kinh tế có liên quan sẽ phải được xem xét trong quá trình đánh giá tình trạng của ngành công nghiệp và mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được trợ cấp và những thiệt hại suy đoán.
Việc điều tra đối kháng phải dừng ngay khi mức trợ cấp nằm dưới mức tối thiểu (nhỏ hơn 1% theo trị giá) hoặc khi khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp trên thực tế hoặc ước tính hoặc thiệt hại là không đáng kể. Trừ trường hợp đặc biệt, thủ tục điều tra phải được kết thúc trong thời hạn một năm, và trong mọi trường hợp không quá 18 tháng, kể từ ngày khởi xướng. Thuế đối kháng phải chấm dứt trong vòng 5 năm áp dụng trừ khi các cơ quan có thẩm quyền thông qua rà soát xét thấy việc ngừng áp thuế sẽ dẫn đến sự tiếp tục hay tái diễn trợ cấp và thiệt hại.
Hiệp định này cũng công nhận rằng trợ cấp có thể đóng vai trò quan trọng trong các chương trình phát triển kinh tế của các nước đang phát triển, và trong sự chuyển dịch từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Những nước kém phát triển và những nước đang phát triển có Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) bình quân đầu người ít hơn 1000 USD sẽ được miễn khỏi những quy tắc về trợ cấp xuất khẩu bị cấm và hưởng miễn trừ đối với trợ cấp bị cấp trong một khoảng thời gian nhất định. Đối với các nước đang phát triển khác, việc cấm trợ cấp xuất khẩu sẽ có hiệu lực trong 8 năm kể từ ngày hiệp định WTO có hiệu lực và những nước này được hưởng sự miễn trừ đối với trợ cấp bị cấm trong một khoảng thời gian nhất định (khoảng thời gian này sẽ ngắn hơn thời gian của các nước kém phát triển hơn).
Việc điều tra đối kháng đối với một sản phẩm xuất xứ từ một nước thành viên đang phát triển sẽ chấm dứt nếu tổng lượng trợ cấp không vượt quá 2% (và xuất xứ từ một số nước đang phát triển là 3%) tính trên trị giá sản phẩm, hoặc nếu khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp chiếm ít hơn 4% tổng lượng sản phẩm tương tự nhập khẩu của quốc gia nhập khẩu. Đối với những nước đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, trợ cấp bị cấm sẽ không bị tính trong vòng 7 năm kể từ ngày hiệp định này có hiệu lực.
Hiệp định về tự vệ
Hiệp định này cho phép một thành viên áp dụng biện pháp tự vệ để bảo vệ ngành công nghiệp nội địa khỏi sự gia tăng đột biến của bất kỳ sản phẩm nhập khẩu nào mà gây ra hoặc đe dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp đó.
Hiệp định đặt ra những yêu cầu đối với việc điều tra tự vệ, bao gồm việc thông báo công khai các phiên thẩm vấn và các biện pháp thích hợp để các bên có liên quan có thể đưa chứng cứ, bao gồm cả việc xem xét xem việc áp dụng biện pháp này có phù hợp với lợi ích chung không. Trong trường hợp khẩn cấp có thể áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời dựa trên phán quyết sơ bộ về tổn hại nghiêm trọng. Thời gian áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời sẽ không được vượt quá 200 ngày.
Hiệp định đặt ra các thời hạn cho tất cả các biện pháp tự vệ. Nhìn chung, thời gian áp dụng biện pháp sẽ không vượt quá 4 năm mặc dù thời hạn này có thể được kéo dài tối đa đến 8 năm, tùy thuộc vào sự xác định mức độ cần thiết gia hạn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nếu có chứng cứ rõ ràng rằng ngành công nghiệp này đang được điều chỉnh. Bất kỳ biện pháp nào được áp dụng trong khoảng thời gian trên 1 năm sẽ từng bước được nới lỏng trong suốt thời gian áp dụng. Không một biện pháp tự vệ nào được áp dụng trở lại đối với một sản phẩm đã từng bị áp dụng biện pháp này trong thời hạn bằng thời hạn mà biện pháp đó đã được áp dụng trước đây với điều kiện là thời hạn không áp dụng phải ít nhất là 2 năm. Có thể áp dụng lại một biện pháp tự vệ đối với việc nhập khẩu một sản phẩm trong thời hạn 180 ngày hoặc ít hơn nếu ít nhất 1 năm sau khi biện pháp tự vệ này được áp dụng đối với sản phẩm đó, và nếu biện pháp tự vệ này chưa được áp dụng hơn hai lần cho cùng một sản phẩm trong vòng 5 năm ngay trước ngày áp dụng biện pháp này.
Các biện pháp tự vệ sẽ không được áp dụng đối với sản phẩm có xuất xứ từ các nước thành viên đang phát triển nếu thị phần sản phẩm liên quan không vượt quá 3%, và với điều kiện là tổng thị phần nhập khẩu từ các Thành viên đang phát triển có thị phần nhập khẩu riêng lẻ nhỏ hơn 3% không vượt quá 9% tổng kim ngạch nhập khẩu sản phẩm liên quan. Một nước thành viên đang phát triển có quyền kéo dài thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ trong thời hạn không quá 2 năm sau khi hết thời hạn tối đa bình thường. Một nước thành viên đang phát triển cũng có thể áp dụng lại một biện pháp tự vệ đối với một sản phẩm đã từng bị áp dụng biện pháp này trước đó sau thời gian bằng một nửa thời gian mà biện pháp này được áp dụng trước đây, với điều kiện là thời gian không áp dụng ít nhất là 2 năm.
Tổng quan về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Nhằm đạt được một giải pháp tích cực cho các bên trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc áp dụng các Hiệp định của WTO. WTO cung cấp một cơ chế giải quyết tranh chấp cho các thành viên của mình thông qua Hiệp định về các Qui tắc và Thủ tục giải quyết tranh chấp (DSU). Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hiện nay được xem như cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả nhất trong hệ thống luật pháp quốc tế. Cơ chế này không chỉ đóng vai trò như một cơ quan tư pháp mà còn như là một cơ chế phòng ngừa tranh chấp, giúp làm cân bằng giữa các quyền và nghĩa vụ của các thành viên WTO. Nó thực hiện ba chức năng chính: (i) đảm bảo hệ thống thương mại đa phương hoạt động một cách an toàn và dễ dự đoán bằng cách củng cố và tăng cường tính bắt buộc phải thi hành các quy định của pháp luật (rule of law); đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của các thành viên WTO; và làm rõ quyền và nghĩa vụ này thông qua việc giải thích Hiệp định WTO phù hợp với các qui tắc có tính tập quán về giải thích công pháp quốc tế. Với các chức năng này, các bên tranh chấp bắt buộc phải tuân thủ các cam kết của họ theo các hiệp định liên quan. Các khuyến nghị và phán quyết của Cơ quan giải quyết tranh chấp mang tính bắt buộc thực thi đối với các bên trong vụ tranh chấp.
Thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp này của WTO, các thành viên WTO có thể đảm bảo rằng các quyền của họ theo các Hiệp định WTO được thực thi. Điều này tạo điều kiện cho mỗi thành viên có thể khởi kiện chống lại bất kỳ thành viên nào khác vi phạm các chính sách thương mại nhằm bắt buộc các thành viên đó phải tuân thủ những nghĩa vụ của mình theo các cam kết trong các hiệp định WTO. Theo cơ chế này, các thủ tục giải quyết tranh chấp sẽ bắt đầu bằng một cuộc tham vấn song phương và nếu tham vấn không thành công, các thành viên khiếu nại có thể yêu cầu DSB thành lập Ban Hội thẩm. Nếu các thành viên WTO có quan tâm đến tranh chấp, họ có thể tham gia như các bên thứ ba.