Mặc dù các nước Ả rập có nhiều bất ổn về chính trị - xã hội, nhưng là khu vực có kinh tế tăng trưởng khá trong những năm gần đây. Xu thế mở cửa kinh tế ngày càng thể hiện rõ qua các hoạt động như gia tăng hoạt động xuất nhập khẩu, thực hiện tự do hóa thương mại, đàm phán và ký kết các FTA giữa các nước Ả rập với nhiều nước và nhiều khu vực trên thế giới. Đặc biệt 6 nước thuộc Hội đồng hợp tác vùng Vịnh (GCC) gồm Ả rập Xê út, các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất (UAE), Baren, Cata, Cô oét và Ôman bắt đầu thực hiện khu vực thị trường chung toàn khối từ tháng 1/2008, trong đó có việc tự do di chuyển người và hàng hóa trong GCC, theo kế hoạch đến năm 2010 sẽ thực hiện Liên minh tiền tệ. Từ 1/1/2005, Khu vực mậu dịch tự do giữa các nước Ả rập (GAFTA) bắt đầu có hiệu lực, hiện có 18 nước tham gia. Các nước GAFTA đang hướng tới mục tiêugiảm thuế quan xuống còn 0 - 5% theo lộ trình 15 năm. Trong xu thế tự do hóa thương mại hiện nay, các nước Ả rập không chỉ quan tâm mở rộng thị trường nội địa, mà còn đàm phán và ký kết các thỏa thuận thương mại với các đối tác lớn trên thế giới như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ... Riêng Mỹ, đến nay đã ký FTA với Jordan, Baren, Ma rốc và Ôman, mục tiêu của Mỹ là sẽ ký FTA với tất cả các nước Ả rập trước năm 2013.
Ngoài tiềm năng lớn về dầu và khí đốt, các nước Ả rập có nhiều triển vọng hợp tác với Việt Nam trên các lĩnh vực thương mại, đầu tư, du lịch, dầu khí, lao động... Những thị trường Ả rập có nhiều quan hệ với Việt Nam trong những năm qua phải kể đến Ả rập Xê út, UAE, Ai Cập, I rắc. Thời gian gần đây, hợp tác giữa Việt Nam với GCC được xem là có nhiều triển vọng tốt do nhu cầu tiêu thụ hàng hóa của người dân khu vực này ngày càng tăng cao, trong khi Chính phủ các nước này đang thực hiện chính sách theo hướng quan tâm nhiều hơn tới thị trường Việt Nam. Các nước Ả rập có nhu cầu nhập khẩu lớn về hàng nông - thủy sản, dệt may, giày dép, điện tử, đồ gỗ, đồ nhựa, cơ khí, thủ công mỹ nghệ...; đồng thời cóthế mạnh trong việc cung cấp các mặt hàng xăng dầu, sản phẩm hóa dầu, phân bón, hóa chất, sắt thép...
Những năm trước đây, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường các nước Ả rập chủ yếu là vào UAE và I rắc, gần đây đã mở sang các thị trường Ixraen, Ả rập Xê ít, Thổ Nhĩ Kỳ... Cán cân thương mại chuyển hướng từ chỗ Việt Nam nhập siêu sang thế xuất siêu. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước này cũng có thay đổi theo hướng giảm dần xuất khẩu nhóm hàng nông sản, tăng tỷ trọng nhóm hàng có hàm lượng chất xám, trong đó những hàng hóa có kim ngạch tăng mạnh như giày dép, điện tử, đồ gỗ... có mặt hàng đạt kim ngạch tăng trưởng tới 100%/năm. Các nước Ả rập cũng đã có những dự án đầu tư thành công ở Việt Nam như nhà máy thép Zamil Steel và Khu du lịch giải trí cao cấp Raffles Resort (Ả rập Xê út), Tập đoàn dầu khí Việt Nam đã ký thỏa thuận hợp tác với Ôman, Baren, Cata. Nhằm hướng mạnh và thị trường Ả rập, Việt Nam đã chọn năm 2008 là "năm trọng điểm" trong quan hệ với các nước Ả rập".
Theo Bộ Công Thương, Dubai và Iran là 2 thị trường tiềm năng của khu vực mà các doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm. Hiện nay, 2 thị trường này đang có nhu cầu lớn đối với nhiều hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. UAE có qui mô kinh tế lớn thứ 3 trong thế giới Ả rập (sau Ả rập Xê út và Ai Cập) là một trong những trung tâm thương mại hàng đầu thế giới, là trung tâm tái xuất lớn thứ 3 thế giới (sau Hồng Kông và Xingapo). Dubai là thành phố quốc tế sôi động với cơ sở hạ tầng và trang thiết bị hiện đại, là "cửa ngõ" lý tưởng cho hàng hóa thâm nhập vào các nước ở khu vực. Thương mại Việt Nam - Du bai trong những năm qua có chiều hướng tăng mạnh với kim ngạch 2 chiều khoảng hơn 200 triệu USD/năm, trong đó Việt Nam ở thế xuất siêu. I ra có dân số đông (gần 70 triệu người), có vị trí địa lý quan trọng ở khu vực, có trữ lượng dầu lửa lớn thứ 2 thế giới. I ra có tiềm năng kinh tế lớn, có nhu cầu nhập khẩu nhiều loại hàng hóa mà Việt Nam có thế mạnh. Những năm gần đây, I ra tiêu thụ trung bình mỗi năm 2,7 triệu tấn gạo, 130.000 tấn chè, nhập khẩu trung bình 40.000 tấn cao su tự nhiên và 800.000 tấn dầu ăn. Các doanh nghiệp I ra đang muốn tăng cường hợp tác với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực như xây dựng, giao thông vận tải, dầu khí, sản xuất xi măng và phân bón, trồng và chế biến cao su, chè... I ra có khả năng cung cấp cho Việt Nam nhiều loại hàng hóa có chất lượng và giá cả cạnh tranh như sản phẩm hóa dầu, phân bón, sắt thép, đồng nguyên liệu, súc vận sống...
Năm 2008, buôn bán giữa Việt Nam với các nước Ả rập thuộc Trung Đông đạt 1,2 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu 700 triệu USD. Đây là khu vực thị trường tương đối dễ tính, có thuế suất nhập khẩu thấp (thường là 0- 5%), nhưng điều quan trọng là các doanh nghiệp phải thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng đã ký thì mới làm ăn lâu dài được. Để tăng cường xuất khẩu hàng hóa sang các nước Ả rập, các doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng thay đổi cơ cấu mặt hàng theo hướng tăng tỷ trọng những hàng hóa có giá trị cao, đồng thời xúc tiến hợp tác với các đối tác Ả rập để tận dụng thế mạnh về vốn của họ. Tháng 4/2008, Việt Nam và Ôman đã ký hiệp định tránh đánh thuế 2 lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đánh vào thu nhập. Đây là hiệp định về thuế đầu tiên mà Việt Nam ký với một quốc gia Ả rập và là hiệp định thứ 49 thuộc loại này mà Việt Nam đã ký với các nước. Việc ký hiệp định này tạo sức hấp dẫn mới cho hợp tác kinh tế và đầu tư giữa 2 nước nói riêng và giữa Việt Nam với các nước Ả rập nói chung. Hiện nay, một số doanh nghiệp Ôman đang có dự án hợp tác đầu tư 100% vốn và liên doanh với các đối tác Việt Nam trên một số lĩnh vực như tài chính, ngân hàng, dầu khí, xây dựng, bất động sản. Trước đó, Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) đã ký với các đối tác Ôman thỏa thuận lập Quỹ đầu tư chung giữa Việt Nam và Ôman số vốn ban đầu là 100 triệu USD, Quỹ này dự kiến đầu tư vào các dự án bất động sản, hạ tầng cơ sở, năng lượng tại Việt Nam.
Cho đến nay, nhìn chung quan hệ hợp tác Việt Nam - các nước Ả rập còn hạn chế, nguyên nhân chủ yếu là các bên còn ít thông tin về thị trường của nhau. Yêu cầu đối với hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Ả rập có nhiều qui cách và tiêu chuẩn, đòi hỏi về chất lượng có nhiều khác biệt so với những thị trường mà doanh nghiệp Việt Nam vẫn quen buôn bán. Điều này đặt ra yêu cầu phải nhanh chóng tìm hiểu thị trường để nắm bắt thông tin. Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu có nhiều điểm giống nhau do có sự tương đồng về điều kiện tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế. Thực tế những năm qua, các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung đều thiếu thông tin về thị trường Ả rập, không có chiến lược kinh doanh phù hợp, khi muốn xuất khẩu vào thị trường này thường phải thông qua các doanh nghiệp đầu mối lớn. Theo các chuyên gia thuộc Bộ Công Thương, Nhà nước cần tăng cường đàm phán về ngoại giao, ký kết các hiệp định hợp tác trên từng lĩnh vực cụ thể, trước hết là về thương mại, sử dụng hợp lý các chính sách khuyến khích xuất khẩu theo hướng ưu tiên phát triển các thị trường và mặt hàng mới. Về phía doanh nghiệp, nên chọn một hoặc vài thị trường trọng điểm ở khu vực để làm "bàn đạp" mở rộng sang các thị trường lân cận.
Mỗi nước Ả rập lại có đặc điểm và tập quán kinh doanh riêng, nên doanh nghiệp xuất khẩu phải tìm hiểu cụ thể để có cách thích ứng. Ví dụ, I ran, Ả rập Xê út, Ixraen thường dùng phương thức L/C, với một số nước khác lại thường dùng phương thức trả chậm (D/P), với I ra thì không nên thanh toán bằng USD mà nên dùng EUR. Nếu doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng gia cầm giết mổ thì cần tuân thủ qui trình chế biến sản phẩm với những yêu cầu khác biệt so với nhiều thị trường thông thường khác. Sau các cuộc hội thảo đông người, phía đối tác Ả rập (nhất là Ixraen) thường muốn gặp riêng từng doanh nghiệp xuất khẩu nước ngoài để tra đổi về những vấn đề mà họ quan tâm, do trong hội thảo họ không tiện trao đổi. Khi giao dịch với các đối tác UAE, doanh nghiệp nên chọn thời điểm từ tháng 9 đến tháng 4 năm sau cho mục đích khảo sát thị trường. Có một điểm đáng lưu ý là, hàng năm Hải quan UAE vẫn thông báo danh sách các mặt hàng nhập khẩu được miễn hoặc giảm thuế, nên doanh nghiệp cần quan tâm cập nhật để hỗ trợ cho công tác xuất khẩu của mình.