Trồng đại mạch: cần một qui hoạch tổng thể

Đại mạch là cây trồng có tính toàn cầu, có khả năng thích ứng rộng, dễ thích nghi, có phạm vi phân bố rộng. Diện tích trồng đại mạch trên thế giới đứng hàng thứ tư sau tiểu mạch, lúa nước và ngô. ở Vi

Ngành Bia Việt Nam trong những năm qua đã có tốc độ tăng trưởng rất nhanh. Hàng năm, Ngành phải nhập khẩu một lượng malt trị giá khoảng 50 triệu USD. Dự tính đến năm 2005, sản lượng bia của Việt Nam đạt 1.200 triệu lít, cần khoảng 180.000 tấn malt (khoảng 80 triệu USD) và năm 2010 đạt 1.500 triệu lít, cần khoảng 235.000 tấn malt (trên 100 triệu USD) – một lượng ngoại tệ không hề nhỏ. Riêng đối với malt, chúng ta không đặt vấn đề thay thế hoàn toàn nguyên liệu nhập khẩu, mà chỉ phấn đấu thay thế từ 10-30% đã là rất quí và cũng phải rất lâu mới thực hiện được, chứ hoàn toàn không hề đơn giản.

Là cơ quan nghiên cứu khoa học chuyên ngành, ngay từ năm 2000, Viện Nghiên cứu Rượu – Bia – Nước giải khát Việt Nam đã tổ chức khảo sát tình hình khí hậu, thổ nhưỡng tại một số tỉnh và phối hợp với tỉnh Cao Bằng, Sơn La trồng thử nghiệm đại mạch tại một số huyện, lấy giống đại mạch nhiệt đới của Vân Nam – Trung Quốc. Sau đó, vì nhiều lý do, đến vụ mùa 2002-2003, Viện chỉ tổ chức trồng thử nghiệm 42 ha đại mạch tại 5 xã của tỉnh Sơn La mà không triển khai tại Cao Bằng nữa. Tháng 3/2003, kết quả thu hoạch tại 42 ha này cho năng suất bình quân 2,5-3,0 tấn/ha. Đây là mức năng suất tương đối khả quan.

Hiệu quả từ trồng đại mạch

Từ kết quả trồng đại mạch tại Cao Bằng và Sơn La, có thể thống kê được chi phí cho 1 ha trồng đại mạch là khoảng 2,5-3,0 triệu đồng, bao gồm giống, vật tư nông nghiệp và công lao động. Với mức giá thu mua 2.500 đ/kg đại mạch như hiện nay thì người nông dân chỉ lỗ khi đại mạch cho năng suất thấp dưới 1,5 tấn/ha. Còn năng suất đạt từ 1,5 tấn trở lên thì nhà nông bắt đầu có lãi và nếu năng suất đạt hơn 2,5 tấn/ha thì đại mạch là cây mang lại hiệu quả kinh tế cao. Mà năng suất này chắc chắn đạt được, nếu nông dân tuân theo đúng qui trình kỹ thuật trong gieo trồng đại mạch.

Đối với vùng đất miền núi như Sơn La, vụ đông xuân khí hậu khắc nghiệt, đất bỏ hoang không trồng được cây gì, nay tìm được loại cây trồng phù hợp lại dễ trồng, ít phải chăm sóc và cho hiệu quả kinh tế cao là điều rất thuận lợi, bởi như vậy, đại mạch sẽ không phải cạnh tranh với các cây trồng khác về quĩ đất.

Tháng 3/2003, làm việc với lãnh đạo và đại diện các ban, ngành tỉnh Sơn La, trên cương vị Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty Rượu – Bia – Nước giải khát Việt Nam, ông Nguyễn Văn Việt đã thống nhất với Tỉnh là sẽ bao tiêu toàn bộ sản phẩm đầu ra, do vậy, bà con nông dân chỉ phải lo sao cho cây đại mạch đạt  năng suất cao nhất, với chất lượng tốt nhất, chứ không phải lo khâu tiêu thụ.

Theo đánh giá ban đầu, vụ đông xuân 2002-2003, tại Sơn La có gần 30% diện tích không cho thu hoạch vì đại mạch không trỗ hạt. Còn lại hơn 70% diện tích cho năng suất tương đối tốt từ 2,5-3,0 tấn/ha. Qua tìm hiểu được biết, hầu hết số diện tích không cho thu hoạch là do các hộ chưa tuân theo đúng qui trình kỹ thuật trong gieo trồng và chăm sóc. Số diện tích còn lại tuy có tuân theo qui trình kỹ thuật, nhưng chưa được đầu tư chăm sóc nhiều. Cá biệt có hộ ông Tòng Văn Hưởng tại Bản Cọ, xã Chiềng An, thị xã Sơn La cho năng suất cao. Đây là vụ đầu tiên ông trồng đại mạch và đã tuân thủ tương đối chặt chẽ những yêu cầu kỹ thuật cũng như chăm sóc sau gieo hạt. Trên diện tích 1 ha của ông, năng suất đạt tới 3,5 tấn, bông đại mạch đều hạt và mẩy. Mỗi bông đậu khoảng 32-34 hạt (16-17 hạt/hàng).

Lãnh đạo địa phương một số xã trồng đại mạch cũng cho biết thêm, người dân ở đây hầu hết là dân tộc Thái, cuộc sống còn đơn giản. Ngoài hai vụ lúa, về mùa đông, dân quen tụ tập ca múa, uống rượu nên ít lao động. Khi triển khai trồng cây đại mạch, địa phương cũng đã chọn những hộ chăm chỉ chịu khó, nhưng để xóa bỏ một thói quen không phải là điều đơn giản. Do vậy, nếu khắc phục được nhược điểm này, năng suất đại mạch được nâng cao là điều nằm trong tầm tay.

Cần một qui hoạch tổng thể

Để từng bước phát triển cây đại mạch thành cây hàng hóa, trước hết, cần chọn được bộ giống thích hợp; Nghiên cứu ứng dụng các công nghệ bảo quản, chế biến thích hợp và cuối cùng là xây dựng chính sách hỗ trợ giống, vốn, vật tư và kỹ thuật sản xuất, cùng việc bao tiêu sản phẩm cho người dân. Đối với giống và bao tiêu sản phẩm, cho đến nay không có gì đáng lo ngại. Vấn đề còn lại chỉ là công đoạn sau thu hoạch như thế nào để đảm bảo được chất lượng đại mạch cho đến khi chế biến thành malt.

Vụ đông xuân 2002-2003, để khắc phục khó khăn này, Viện Nghiên cứu Rượu – Bia – Nước giải khát Việt Nam đã phối hợp với Viện hàn lâm Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Vân Nam – Trung Quốc, nhập một máy tuốt và làm sạch đại mạch. Việc đưa máy tuốt đại mạch chuyên dụng vào sản xuất đã khắc phục được hao tổn trong quá trình thu hoạch đại mạch, nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhưng về lâu dài, cần có một nhà máy chế biến malt đặt ngay tại Sơn La thì mới đảm bảo được chất lượng thu hoạch đại mạch cao. Bởi từ đại mạch, muốn trở thành malt sử dụng được trong công nghiệp sản xuất bia, thì phải qua một quá trình chế biến. Địa hình Sơn La xa xôi, nếu vận chuyển về Hà Nội thì phải chịu chi phí rất tốn kém. Nhưng nếu xây dựng một nhà máy chế biến malt ngay tại địa phương thì vấn đề đặt ra là, phải có nguồn nguyên liệu ổn định cho nhà máy hoạt động. Điều này, đối với một viện nghiên cứu của một ngành thì khó có khả năng làm được. Nếu như có thể mở rộng diện tích trồng ở tỉnh Lai Châu, cung cấp thêm nguyên liệu cho nhà máy chế biến malt xây dựng tại Sơn La, thì cũng có thể tạm yên tâm về nguồn nguyên liệu. Thực tế là đầu ra có, nhưng nếu nguồn cung bấp bênh, chất lượng không đảm bảo, thì cũng không doanh nghiệp nào dám ký hợp đồng tiêu thụ.

Ngay tại Chiềng Mai – Thái Lan, nước láng giềng của ta có điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng tương tự một số tỉnh miền núi phía Bắc đã thành công trong việc xây dựng một nhà máy sản xuất malt từ đại mạch với thiết bị hiện đại. Liệu chúng ta có thể xây dựng một hoặc vài nhà máy như thế cho khu vực phía Bắc để thay thế một phần, dù là không lớn malt nhập ngoại, ít nhất là cung cấp cho các nhà máy bia địa phương. Nhưng một dự án như thế thì việc trồng đại mạch, chế biến malt phải trở thành một chủ trương lớn của Nhà nước, của các tỉnh miền núi, các bộ, ngành liên quan, phải là một dự án cấp Nhà nước. Nhất là bây giờ, Tổng công ty Rượu – Bia – Nước giải khát Việt Nam đã có quyết định tách làm đôi, khu vực phía Bắc này chắc chắn tiềm lực kinh tế không thể mạnh như khu vực phía Nam và càng không thể mạnh như khi còn là một Tổng công ty thống nhất.

Thực tế hiện nay, Viện Nghiên cứu Rượu – Bia – Nước giải khát Việt Nam đang phải hỗ trợ cho nông dân rất nhiều. Số tiền mua giống của các vụ trước là Viện hỗ trợ miễn phí cho nông dân. Đến vụ 2002-2003, Viện vẫn hỗ trợ 50% tiền giống, chưa kể cán bộ kỹ thuật còn ăn ngủ tại ruộng để giúp đỡ bà con nông dân về kỹ thuật gieo trồng, ngày đêm cùng dân theo sát qui trình kỹ thuật để cho kết quả đại mạch tốt nhất. Tỉnh chỉ hỗ trợ được về cơ chế, chính sách, còn về tài chính, Viện phải lo hoàn toàn. Đây chính là nguyên nhân khiến cho Viện mới chỉ nghiên cứu trồng thử nghiệm ở Cao Bằng, Sơn La chứ chưa nhân rộng diện tích ra các tỉnh khác dù có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp vì không đủ nhân lực, cũng như nguồn tài chính trang trải cho các khoản chi phí đi lại, ăn ở và giúp dân.

Không xâm phạm quĩ đất, thích hợp với địa hình miền núi, những nơi có khí hậu khắc nghiệt, dễ trồng, cho hiệu quả kinh tế cao, đại mạch có thể coi là loại cây xóa đói giảm nghèo cho dân, đặc biệt là dân tộc miền núi. Các cấp, các ngành hoàn toàn có thể dùng vốn từ quĩ xóa đói giảm nghèo, quĩ hỗ trợ dân tộc thiểu số để hỗ trợ dân tham gia lao động sản xuất trong vụ nông nhàn.

Với một dự án cấp Nhà nước về việc qui hoạch vùng trồng nguyên liệu cho sản xuất bia, may ra việc đưa cây đại mạch vào trồng trên diện rộng mới có thể thực hiện được trong thời gian tới./.

  • Tags: