Phóng viên Tạp chí Công Thương đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Nguyễn Viết Tuyến – Giám đốc Trung tâm Công nghệ Thông tin, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội để làm rõ hơn về chiến lược, kết quả và định hướng chuyển đổi số toàn diện giai đoạn 2024–2030.
PV: Xin ông cho biết, vì sao Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội lại quyết tâm triển khai chuyển đổi số toàn diện trong bối cảnh hiện nay?
TS. Nguyễn Viết Tuyến: Trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp 4.0, chuyển đổi số không còn là lựa chọn mà là yêu cầu tất yếu đối với mọi tổ chức, đặc biệt là giáo dục đại học. Với quy mô hơn 1.400 cán bộ, giảng viên và hơn 32.000 sinh viên, HaUI xác định rõ: chỉ khi thay đổi mô hình hoạt động, ứng dụng công nghệ toàn diện thì mới đáp ứng được nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, hội nhập quốc tế và phát triển bền vững. Từ năm 2023, Nhà trường đã xây dựng lộ trình chuyển đổi số rõ ràng, hướng tới mục tiêu trở thành trường đại học thông minh đầu tiên tại Việt Nam vào năm 2030.
PV: Xin ông chia sẻ cụ thể hơn về các trụ cột chuyển đổi số mà Nhà trường đang triển khai?
TS. Nguyễn Viết Tuyến: Chúng tôi tập trung vào bốn lĩnh vực cốt lõi: quản lý – điều hành, đào tạo, dịch vụ sinh viên và nghiên cứu khoa học. Trong quản lý, hệ thống QMC_eUni với 28 mô-đun đang phục vụ hơn 34.000 người dùng và xử lý hơn 3,2 triệu giao dịch mỗi tháng. Đào tạo được số hóa toàn diện với hơn 45.000 bài giảng trên nền tảng LMS, phục vụ đồng thời 15.000 sinh viên, mô hình blended learning được áp dụng rộng rãi. Ở mảng dịch vụ sinh viên, nền tảng QMC_eStudent và ký túc xá thông minh đang giúp hơn 32.000 sinh viên tiếp cận dịch vụ linh hoạt, hiện đại. Trong nghiên cứu, hệ thống QMC_eResearch hỗ trợ quản lý toàn diện đề tài, công bố, sáng chế, đồng thời định hướng phát triển các phòng thí nghiệm ảo và nền tảng khởi nghiệp số.

PV: Với một hệ thống quy mô như vậy, hạ tầng và nhân lực CNTT của Nhà trường có đáp ứng được không, thưa ông?
TS. Nguyễn Viết Tuyến: Về hạ tầng, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội có nền tảng khá tốt với mạng backbone tốc độ cao, trung tâm dữ liệu đạt chuẩn Tier 2, hơn 2.800 máy tính, và lớp học được trang bị đồng bộ. Tuy nhiên, vẫn còn điểm yếu ở một số khu vực Wi-Fi và nhu cầu mở rộng Cloud để đáp ứng chuyển đổi số sâu hơn. Về nhân lực, đội ngũ CNTT hiện nay gồm 26 người, có kinh nghiệm nhưng còn mỏng, đặc biệt thiếu chuyên gia về AI, dữ liệu lớn, Cloud. Chúng tôi đang phối hợp chặt chẽ với Trường CNTT và Truyền thông, nơi có hơn 120 giảng viên trình độ cao để khắc phục phần nào, đồng thời tìm cách thu hút và giữ chân nhân lực chất lượng cao, vốn đang là thách thức lớn.
PV: Nhà trường đã và sẽ ứng dụng những công nghệ mới nào trong quá trình chuyển đổi số?
TS. Nguyễn Viết Tuyến: Chúng tôi đã triển khai nhiều công nghệ hiện đại như AI (chatbot học tập, cảnh báo sinh viên bỏ học), IoT (thẻ điểm danh, đèn thông minh, smart parking), Big Data (Data Warehouse, dashboard phân tích), học liệu số (2.000+ video giảng). Giai đoạn 2024–2025, chúng tôi đang thử nghiệm blockchain trong xác thực bằng cấp, phát triển 5 phòng thí nghiệm ảo kết hợp công nghệ AR, và nghiên cứu AI nâng cao như hệ thống phân tích cảm xúc sinh viên, gợi ý môn học cá nhân hóa. Từ 2025–2030, sẽ có các dự án lớn như Metaverse Campus, Digital Twin, trợ lý AI, điện toán lượng tử và BCI phục vụ học tập tương tác cao.
PV: Xin ông chia sẻ về chiến lược tổng thể và mục tiêu mà Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội đặt ra trong giai đoạn tới?
TS. Nguyễn Viết Tuyến: Chiến lược chuyển đổi số của Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội có ba giai đoạn: (1) 2025–2026: xây dựng nền tảng thông minh, hoàn thiện hạ tầng, dữ liệu thống nhất, tích hợp hệ thống; (2) 2027–2028: triển khai AI nâng cao, học tăng cường, mô hình ngôn ngữ lớn và thị giác máy tính; (3) 2029–2030: trở thành đại học siêu số, vận hành Metaverse Campus, Digital Twin và ứng dụng các công nghệ đột phá. Mục tiêu không chỉ là đổi mới công nghệ mà còn tái định hình mô hình đại học hiện đại, dữ liệu làm nền tảng, người học làm trung tâm, công nghệ làm động lực phát triển.

PV: Theo ông, chuyển đổi số đã mang lại những thay đổi cụ thể nào cho Nhà trường?
TS. Nguyễn Viết Tuyến: Trước hết là sự thay đổi về tư duy và văn hóa làm việc, từ thụ động sang chủ động, từ thủ công sang tự động. Về hiệu quả quản trị, thời gian xử lý thủ tục rút ngắn rõ rệt, tiết kiệm chi phí, minh bạch hơn. Về đào tạo, giảng viên có thêm công cụ số, sinh viên học tập linh hoạt, cá nhân hóa, tiếp cận học liệu phong phú. Công bố khoa học tăng, tỷ lệ hài lòng sinh viên cao. Đặc biệt, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội ngày càng được đánh giá cao về uy tín, chất lượng và năng lực đổi mới sáng tạo trong hệ thống giáo dục đại học.
PV: Cuối cùng, xin ông cho biết một số kiến nghị chính sách để thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục đại học?
TS. Nguyễn Viết Tuyến: Thực hiện định hướng của Chương trình Chuyển đổi số quốc gia và Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2021–2030, nhằm hỗ trợ các cơ sở giáo dục đại học chuyển đổi số hiệu quả và bền vững, Nhà trường đề xuất một số chính sách trọng tâm như sau:
Về cơ chế, chính sách và khung pháp lý, cần ban hành hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật cho các nền tảng, hệ thống thông tin giáo dục đại học, bảo đảm khả năng tích hợp, mở rộng và an toàn thông tin. Đồng thời, xây dựng hành lang pháp lý rõ ràng cho việc cấp phát, lưu trữ và công nhận văn bằng, chứng chỉ điện tử, tạo cơ sở cho việc ứng dụng công nghệ blockchain và các giải pháp xác thực số hiện đại. Cùng với đó, cần sớm ban hành các quy định về bảo mật dữ liệu cá nhân, quyền riêng tư và an toàn thông tin trong môi trường học tập số nhằm bảo vệ quyền lợi người học và đảm bảo an toàn cho toàn hệ thống.
Về tài chính và nguồn lực đầu tư, đề nghị Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các cơ quan liên quan xây dựng chương trình hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước cho hoạt động chuyển đổi số tại các trường đại học, đặc biệt là các trường công lập. Đồng thời, cần áp dụng các chính sách ưu đãi thuế, miễn giảm lãi suất tín dụng hoặc hỗ trợ tiếp cận vốn cho các dự án đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin, phần mềm quản lý và hệ sinh thái học tập số. Khuyến khích hình thức hợp tác công – tư (PPP) trong đầu tư công nghệ giáo dục và chuyển giao nền tảng số.
Về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, cần tổ chức các chương trình bồi dưỡng chuyên sâu về chuyển đổi số cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý tại các trường đại học, nhằm nâng cao năng lực chỉ đạo và điều hành trong môi trường số. Đồng thời, xây dựng chương trình đào tạo, chuẩn hóa kỹ năng số cho đội ngũ giảng viên toàn ngành, gắn với yêu cầu giảng dạy tích hợp công nghệ và đổi mới phương pháp tiếp cận người học. Nhà nước cũng cần hỗ trợ phát triển lực lượng chuyên trách về công nghệ giáo dục và kỹ thuật số trong mỗi cơ sở đào tạo.
Về hợp tác, chia sẻ và kết nối, cần thành lập và vận hành mạng lưới liên kết giữa các trường đại học trong lĩnh vực chuyển đổi số nhằm chia sẻ kinh nghiệm, giải pháp công nghệ, mô hình vận hành và học liệu số. Đồng thời, phát triển một nền tảng quốc gia dùng chung để chia sẻ tài nguyên học tập, giảng dạy, dữ liệu học thuật và hệ thống phân tích giáo dục, từ đó tạo lập môi trường học tập mở và liên thông toàn ngành.
Về tiêu chuẩn hóa và đánh giá, đề nghị xây dựng bộ tiêu chuẩn quốc gia về chuyển đổi số trong giáo dục đại học, bao gồm các tiêu chí liên quan đến hạ tầng, dữ liệu, nhân lực, dịch vụ và mức độ tích hợp công nghệ. Cùng với đó, cần thiết lập hệ thống đánh giá và xếp hạng mức độ chuyển đổi số tại các cơ sở giáo dục, làm căn cứ cho việc định hướng chính sách, ưu tiên hỗ trợ và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trong toàn ngành.
PV: Trân trọng cảm ơn ông về cuộc trao đổi!