Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, công nghiệp càng có vị trí quyết định, bởi suy cho cùng, cạnh tranh trên thị trờng quốc tế chủ yếu vẫn là cạnh tranh giữa các sản phẩm do ngành công nghiệp chế tạo ra…Công nghiệp tăng trởng cao sẽ tạo ra tiền đề vật chất đảm bảo nâng cao nhịp độ phát triển đất nớc, đẩy mạnh CNH-HĐH. Tuy nhiên, nâng cao tốc độ tăng trởng phải gắn liền với cải thiện chất lợng tăng trưởng. Có như vậy mới đảm bảo hiệu quả kinh tế cao, duy trì tốc độ tăng trởng ổn định và bền vững.
Quan điểm phát triển trong “Chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010” của Đảng ta đã nêu rõ: “Phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm , ngành, lĩnh vực mà nớc ta có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nớc và đẩy mạnh xuất khẩu, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trờng trong nớc và ngoài nớc. Tăng nhanh năng suất lao động xã hội và nâng cao chất lợng tăng trưởng” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam - NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội 2001 - trang 162).
Chất lượng tăng trưởng là một khái niệm mang tính chất định tính. Nó phản ánh nội dung bên trong của quá trình tăng trởng, biểu hiện ở phơng tiện, phương thức, mục tiêu và hiệu ứng đối với môi trờng chứa đựng quá trình tăng trưởng ấy. Khác với chất lượng tăng trưởng, tốc độ tăng trưởng phản ánh mặt ngoài của quá trình tăng trưởng, thể hiện ở mức độ số lượng lớn nhỏ, nhanh hay chậm của việc mở rộng quy mô. Tốc độ tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng là hai mặt của một vấn đề, có quan hệ ràng buộc nhau. Trong phát triển kinh tế, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, đồng thời phải không ngừng nâng cao chất lượng tăng trưởng, có như thế mới đảm bảo tăng trưởng cao, ổn định, hiệu quả và bền vững.
Một cách khái quát nhất, nâng cao chất lượng tăng trưởng được đặc trưng ở những yêu cầu chủ yếu sau đây:
- Phát huy được lợi thế so sánh nhằm tăng trưởng nhanh và đạt hiệu quả kinh tế cao các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tăng trưởng và đẩy mạnh xuất khẩu.
- Không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và thị trường ngoài nước.
- Tăng nhanh được năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, áp dụng có hiệu quả các công nghệ tiên tiến trên thế giới nhằm đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa.
- Tăng trưởng kinh tế gắn với bảo vệ và cải thiện môi trường, đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa môi trường nhân tạo và môi trường thiên nhiên.
Sau gần 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, cùng với sự tiến bộ vượt bậc về nhiều mặt của nền kinh tế, xã hội nước ta, công cuộc công nghiệp hóa đã có bước tiến khá rõ nét trong việc cơ cấu lại sản xuất, đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại, hình thành được một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp kỹ thuật cao, tạo cơ sở ban đầu cho công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Ở mức độ nhất định, ngành công nghiệp đã phát huy được lợi thế của từng ngành, từng sản phẩm, duy trì được tốc độ tăng trởng cao, sản xuất đã gắn được với thị trường, sản phẩm tiêu thụ khá trên thị trường trong nước và thế giới. Trong suốt thời gian 13 năm trở lại đây (1991-2003) tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp đạt khá cao và tương đối ổn định, trên dưới 10%/năm, có năm cao lên đến 14% (các năm 1992,1994 và 1995); tốc độ tăng trưởng công nghiệp bình quân thời kỳ 1991-1995 là 12,0%, thời kỳ 1995-2000 là 10,6%. Thời kỳ 3 năm 2001-2003 giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm khoảng 15%, cao hơn so với mục tiêu 13,1% đề ra trong kế hoạch 5 năm 2001-2005. Đặc biệt tốc độ tăng giá trị sản xuất trung bình năm 2003 ước đạt trên 16%, vượt kế hoạch đề ra (14-14,5%) và cao hơn hẳn 2 năm trước đó (năm 2001 tăng 14,6%, năm 2002 tăng 14,8%). Thực tế cho thấy tăng trưởng của ngành công nghiệp là khá vững chắc, quý sau cao hơn quý trước, năm sau cao hơn năm trước. Tốc độ tăng trưởng cao ở tất cả các thành phần và khu vực kinh tế. Nhiều ngành sản xuất và sản phẩm công nghiệp quốc doanh đã tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước mà nổi bật là ngành Than đã hoàn thành kế hoạch năm 2005 trước 2 năm. Năm 2003 ngành Than đã khai thác trên 18 triệu tấn than, tăng 19%, trong đó xuất khẩu trên 6,3 triệu tấn, tăng 15% so với năm 2002. Một số sản phẩm công nghiệp nhà nước đã tăng với tốc độ rất cao trong năm 2003 như: Ô tô lắp ráp trên 80%, quạt điện dân dụng 37,6%, quần áo dệt kim trên 50%, động cơ Diezel 31,5%, quần áo may sẵn 22,5%, sữa hộp 25%. Công nghiệp ngoài quốc doanh cũng đã tăng trưởng với tốc độ 18,6% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng trởng trên 18,5% so với năm 2002.
Tốc độ tăng trưởng cao của ngành công nghiệp trong hơn 1 thập kỷ qua đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP năm 1991 là 40,5%, giảm xuống 26,2% năm 1995 và còn 23,3% năm 2001. Tỷ trọng công nghiệp đã tăng từ 23,85% năm 1991 lên 30% năm 1995 và đạt 39,97% năm 2003. Tỷ trọng ngành dịch vụ tương đối ổn định ở mức trên dưới 40% trong GDP. Cũng nhờ công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao, tốc độ tăng trưởng kinh tế cả nước đã đạt cao, bình quân 8,2% hàng năm thời kỳ 1991-1995 và 6,5% thời kỳ 1998-2003.
Nh vậy, nhìn một cách tổng thể trong suốt hơn 1 thập kỷ qua, ngành Công nghiệp đã đạt đợc những thành tích đáng kể sau đây:
- Tốc độ tăng trởng đạt khá cao và ổn định, tơng đối vững chắc trong suốt cả thời kỳ dài (1991 - 2003).
- Hình thành đợc một số ngành mũi nhọn có tốc độ tăng trởng cao, có sức lôi kéo các ngành và lĩnh vực khác.
- Chất lợng sản phẩm công nghiệp đã có tiến bộ, nâng cao đợc sức cạnh tranh ở một mức độ nhất định.
- Khu vực công nghiệp đã góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu và cải thiện phần nào cơ cấu xuất khẩu theo hớng tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến, giảm tỷ trọng xuất khẩu thô.
Tuy nhiên, quá trình tăng trởng của ngành công nghiệp còn bộc lộ những hạn chế chủ yếu sau đây:
- Sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp còn hạn chế. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa nớc ta trên thị trờng thế giới còn yếu. Theo đánh giá của diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nớc ta đợc xếp hạng một số năm gần đây là: Năm 1999 xếp thứ 48/53, năm 2000 là 49/59, năm 2001 là 62/75 và năm 2002 là 60/80. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam hạn chế đợc biểu hiện ở chỗ: Công nghệ vừa thiếu vừa lạc hậu; Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và quản lý còn yếu; Năng suất lao động còn thấp; Chất lợng sản phẩm cha cao và giá thành sản phẩm bất hợp lý; Thị trờng đầu ra cha ổn định, thiếu bền vững. Năng lực cạnh tranh thấp dẫn đến khả năng hội nhập của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, hiện chỉ có khoảng 30% số doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia hội nhập khu vực và thế giới.
- Tăng trởng công nghiệp cha đạt hiệu quả kinh tế cao, đóng góp vào tăng trởng kinh tế cha tơng xứng với tỷ trọng đầu t vào ngành công nghiệp. Một trong những biểu hiện rõ nét là tỷ lệ chi phí trung gian trong giá trị sản xuất còn lớn và có xu hớng tăng: Thời kỳ 1991-1995, tỷ lệ này là 53,76%; Thời kỳ 1997-1999 là 45,87% và giai đoạn 2000-2003 là 54,09%. Trong sản xuất, các ngành công nghiệp nớc ta còn phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, chịu ảnh hởng rất lớn từ sự biến động của thị trờng thế giới. Chẳng hạn ngành Nhựa, tỷ lệ nguyên liệu nhập khẩu lên tới 94%. Trong nhiều năm qua, đầu t của nền kinh tế cho công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, tuy nhiên đóng góp của công nghiệp cho tăng trởng của nền kinh tế còn hạn chế. Thời kỳ 1991-1995, tỷ lệ đầu t cho công nghiệp chiếm 46,2% tổng đầu t toàn xã hội, nhng chỉ đóng góp 39,05% cho tăng trởng. Các tỷ lệ tơng ứng của thời kỳ 1995-2001 là 39,7% và 54,1%. Năm 2003 tốc độ tăng giá trị sản xuất đạt 16% nhng GDP chỉ tăng lên 10,5% và chỉ đóng góp 3,1% cho tăng trởng kinh tế.
- Tăng trởng công nghiệp đã thúc đẩy xuất khẩu tăng trởng nhanh nhng thiếu vững chắc. Tỷ lệ tăng xuất khẩu năm 2000 đạt 24%, giảm xuống 4,5% (2001),10% năm 2002 rồi lại tăng lên 16,7% năm 2003. Điều quan trọng là tuy xuất khẩu tăng trởng cao, nhng hiệu quả cha tăng tơng ứng, rõ nhất là trong ngành Dệt may. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu ngành Dệt may đạt 3,5 tỷ USD, tăng 25,36% so với năm 2002, nhng tốc độ này lại phụ thuộc quá lớn vào nguyên liệu nhập khẩu. Kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu chủ yếu cho dệt may năm 2002 là 3,118 tỷ USD, năm 2003 tăng lên 4,152 tỷ USD (tức 33,16%).
Nh vậy để có thêm 1 USD từ xuất khẩu dệt may phải nhập khẩu cỡ 1,3USD nguyên liệu từ nớc ngoài, điều đó cũng có nghĩa là đóng góp của xuất khẩu cho tăng trởng kinh tế trong nớc bị hạn chế. Tình hình tơng tự cũng diễn ra ở một số sản phẩm khác nh điện tử, tin học, da giầy… cho thấy hiệu quả xuất khẩu cha cao.
Nguyên nhân của những hạn chế trên đây có nhiều, cả khách quan và chủ quan. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ nêu lên một số nguyên nhân cơ bản nhất về phía chủ quan. Đó là:
- Chi phí sản xuất của nhiều loại sản phẩm còn cao, làm hạn chế khả năng cạnh tranh cả trên thị trờng trong nớc và ngoài nớc.
- Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp chậm chuyển dịch và còn mang tính tự phát.
- Công tác quy hoạch phát triển ngành còn nhiều yếu kém, cha gắn với thị trờng và phát huy lợi thế so sánh của đất nớc.
- Việc sử dụng nguồn lực còn kém hiệu quả, thất thoát và lãng phí trong đầu t ở các khâu từ quy hoạch, thiết kế, tổng dự toán, định mức vẫn còn phổ biến, công tác giám sát đầu t cha đợc thực hiện tốt.
- Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ thiết kế, t vấn, giám sát… trong lĩnh vực đầu t và xây dựng còn nhiều hạn chế.
- Quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nớc tiến hành còn chậm..
- Năng suất lao động công nghiệp còn thấp một phần do thiếu quy hoạch , kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực có chất lợng. Hoạt động khoa học và công nghệ cha đáp ứng đợc nhu cầu thực tiễn của sự phát triển công nghiệp.
Nh vậy, nâng cao chất lợng tăng trởng của nền kinh tế nói chung và của ngành công nghiệp nói riêng là một đòi hỏi bức xúc trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Để đáp ứng đợc yêu cầu đó cần thực hiện một hệ thống các giải pháp toàn diện và đồng bộ theo hớng khắc phục các tồn tại và nguyên nhân trên đây. Có nh vậy, ngành công nghiệp nớc nhà mới thực hiện đợc vai trò chủ đạo của mình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế.
Nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
TCCT
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngành công nghiệp có vai trò hết sức to lớn. Khác với nông nghiệp, ngành công nghiệp có lợi thế hơn hẳn về tốc độ tăng trởng, trình độ mở rộng quy mô. S