Xuất khẩu và những yêu cầu trong hoạt động xúc tiến thương mại

Mục tiêu tổng quát trong Chiến lược xuất nhập khẩu (XNK) của Việt Nam là, phấn đấu đến năm 2010, xuất khẩu (XK) hàng hoá đạt trên 80 tỉ USD, tăng bình quân hàng năm giai đoạn 2006- 2010 tối thiểu 18%.

Năm 2006, tổng trị giá XNK đạt 84 tỉ USD, trong đó XK đạt 39,6 tỉ USD, tăng 7,163 tỉ USD, tương ứng tăng 22,1% so với năm 2005, vượt gần 5% chỉ tiêu kế hoạch, NK 44,4 tỉ USD, tăng 20,1% so với năm 2005.

Kế hoạch XK năm 2007 tối thiểu đạt 47,74 tỉ USD, tăng 20% so với 2006, trong đó xuất khẩu sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương là 24,96 tỉ USD, tăng 21%; châu Âu 9,19 tỉ USD, tăng 21%; châu Mỹ 11,17 tỉ USD, tăng 22%; châu Phi - Tây Nam Á 2,42 tỉ USD,  tăng 64%.

Nhóm hàng XK chủ lực có quy mô xuất khẩu lớn bao gồm: Dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, thủ công mỹ nghệ, linh kiện điện tử, gạo, cà phê, cao su, hạt điều, rau quả, thuỷ sản, dầu thô. Bên cạnh đó là nhóm có tiềm năng XK như rau quả, thủ công mỹ nghệ và nhóm có tiềm năng XK cao, tốc độ tăng trưởng cao gồm dây điện và cáp điện, sản phẩm nhựa, xe đạp và phụ tùng xe đạp, sẽ được tập trung đẩy mạnh và có biện pháp khuyến khích XK thích hợp.

Một số sản phẩm công nghiệp XK chủ lực tiếp tục giữ được tốc độ tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước như: XK hàng dệt may đạt 1,6 tỷ USD (tăng hơn 30%), sản phẩm nhựa đạt khoảng 144 triệu USD (tăng 48,5%), sản phẩm gỗ đạt khoảng 584 triệu USD (tăng hơn 25%) và hàng điện tử và linh kiện máy tính đạt 441 triệu USD (tăng 17%).

Nhiều người cho rằng, việc Việt Nam gia nhập WTO, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội thâm nhập sâu hơn vào thị trường thương mại toàn cầu, dự báo đến năm 2010, kim ngạch XK của Việt Nam sẽ đạt 100 tỷ USD. Hơn thế nữa, việc cải cách thủ tục hải quan cũng là một cái nút quan trọng để đẩy mạnh XK, cũng như tăng trưởng XK và quá cảnh hàng hóa ở Việt Nam đi các nước trong khu vực.

Tuy nhiên, với điều khoản chỉ được công nhận nền kinh tế thị trường sau 12 năm gia nhập WTO, đây được coi là một trong những điều khoản cam kết sẽ mang lại nhiều thách thức cho Việt Nam. Đặc biệt, việc một số hàng XK của Việt Nam có thể sẽ bị kiện bán phá giá là điều không tránh khỏi.

Có ý kiến cho rằng, việc Việt Nam gia nhập WTO nhưng vẫn phải đợi tới 12 năm sau khi gia nhập mới được coi là nền kinh tế thị trường là một sự thiếu lôgic và không phù hợp với bản chất của WTO. Nhưng cũng có ý kiến khác, nếu nghiên cứu kỹ lưỡng quy tắc của tổ chức này sẽ thấy, hoạt động của nó dựa trên nguyên tắc cơ bản là mọi đối tác khi tham gia vào các hoạt động thương mại quốc tế, phải là những thực thể kinh tế độc lập và các quyết định đưa ra cũng phải độc lập với ý muốn của Nhà nước và chỉ dựa trên những lợi ích về kinh tế.

Điều đó có nghĩa là, đối với những thành viên, do điều kiện đặc thù chưa đáp ứng được những quy tắc chung này thì vẫn phải thiết kế một số quy tắc đặc biệt dành cho các thành viên đó.

Việt Nam cũng như Trung Quốc là những nền kinh tế nằm trong trường hợp này, với điều kiện chung khi gia nhập là doanh nghiệp có sở hữu nhà nước làm chủ đạo phải chịu sự giám sát đặc biệt khi gia nhập WTO. Tuy nhiên, thời hạn 12 năm có thể sẽ được rút ngắn hơn, nếu Việt Nam có khả năng xây dựng một nền kinh tế thị trường theo những tiêu chí của nước nhập khẩu, và theo đó, việc áp dụng các điều khoản đặc biệt nói trên cũng sẽ được chấm dứt.

Năm 2005, có 169 chương trình xúc tiến thương mại với tổng kinh phí 321,88 tỉ đồng do 28 đơn vị chủ trì thực hiện, tập trung cho các hoạt động xúc tiến thương mại tại các thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga về đồ gỗ, hải sản, dệt may, giày dép... là những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn.

Năm 2006, có 155 chương trình XTTM được phê duyệt, với kinh phí hỗ trợ của Nhà nước là 144,77 tỷ đ. Năm 2007, công tác XTTM đã thay đổi cơ bản cách làm. Các chương trình XTTM đã được phê duyệt từ tháng 9/2006 sẽ thuận tiện cho việc triển khai thực hiện, đồng thời, tăng thêm đầu mối cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ... Hiện toàn bộ danh mục các chương trình XTTM của năm 2007 đã được công khai trên trang Web của Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương). Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, thì mức chi cho XTTM của Việt Nam đang ở mức thấp nhất thế giới.

2. Một số vấn đề về XK& XTTM

a - Đối phó từ thị trường nội địa

Nhiều người đã lo ngại về chính sách tập trung cho XK và có phần coi nhẹ thị trường trong nước. Nhiều nhà quản lý cũng như chuyên gia kinh tế đã cảnh báo: Nếu không chiếm lĩnh thị trường nội địa thì khi đó, chúng ta sẽ trao quyền NK, quyền XK cho các doanh nhân nước ngoài. Nhiều người đang lo ngại và cho rằng, chúng ta đang đi ngược lại quy luật chung về thị trường nội địa và vấn đề XK, bởi lẽ, theo logic chung, phát triển thị trường nội địa sẽ tạo điều kiện cho XK. Hiện tại, kim ngạch XK của Việt Nam đạt khoảng 40 tỷ USD. Quy mô của thị trường nội địa là 37 tỷ USD. Cho nên, nếu không làm tốt, thúc đẩy thị trường nội địa thì rõ ràng chúng ta mất một cái chân. Nhìn sang Trung Quốc thì thấy, xuất phát từ việc đẩy mạnh tiêu dùng nội địa mà nước này đã tập trung xuất khẩu thành công.

b - Xuất khẩu tại chỗ chưa được khai thác đúng mức.

Nhiều chuyên gia kinh tế khuyến cáo, Việt Nam cần nâng cao khả năng cung cấp dịch vụ cho các nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức nước ngoài và khách du lịch nước ngoài tới Việt Nam. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia trong và ngoài nước, Việt Nam có tiềm năng lớn về các dịch vụ máy tính và phần mềm, tư vấn pháp luật, kinh doanh, kiến trúc, giao nhận-vận tải, nên cần đẩy mạnh XK dịch vụ tại chỗ để giảm nhập siêu về dịch vụ.

Theo kết quả khảo sát tại các doanh nghiệp FDI về hiệu quả sử dụng dịch vụ tại Việt Nam, hầu hết các doanh nghiệp đều cho rằng, doanh nghiệp dịch vụ của Việt Nam có lợi thế về giá rẻ, khả năng đáp ứng nhanh hơn các công ty kinh doanh dịch vụ nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Tuy nhiên, các doanh nghiệp FDI cũng khuyến cáo các doanh nghiệp Việt Nam nên nâng cao năng lực quản lý chất lượng dịch vụ, thời gian giao hàng, cách giao hàng, khả năng marketing.

Người ta cho rằng, XK dịch vụ Việt Nam có những mặt mạnh yếu như sau:

Quá trình hội nhập của Việt Nam đang tạo ra những cơ hội mới cho các công ty dịch vụ hoạt động trong một môi trường cạnh tranh và cởi mở. Những cải cách về thể chế và hành chính phù hợp với những cam kết quốc tế, tạo triển vọng dỡ bỏ rào cản đối với hầu hết các dịch vụ và hoạt động kinh doanh sẽ có một sân chơi bình đẳng cả trên thị trường quốc tế và trong nước.

Các công ty dịch vụ Việt Nam cũng có thể mở rộng hoạt động XK của mình ra nước ngoài, nhờ tự do hoá thương mại ở những nước đối tác và thông qua hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ. Về tầm trung hạn và dài hạn, họ hoàn toàn có thể nghĩ đến việc đạt được giá trị gia tăng cao hơn về dịch vụ, thông qua những nỗ lực không ngừng, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, sử dụng công nghệ tốt hơn và nâng cao sức cạnh tranh của mình.

Cũng có những đe dọa và thách thức lớn mà các công ty dịch vụ Việt Nam phải đối mặt. Hầu hết các công ty dịch vụ của Việt Nam đều có quy mô nhỏ và rất nhỏ, mới được thành lập và yếu về khả năng cạnh tranh, đặc biệt là trong khâu quản lý chất lượng.

Bên cạnh đó, chiến lược quốc gia phát triển dịch vụ chưa được hoàn thiện, hoặc chưa được thực hiện tốt ở những lĩnh vực đã có chiến lược. Nhìn chung, đối với XK dịch vụ, cả doanh nghiệp và một số cơ quan nhà nước vẫn chưa hiểu rõ các điều khoản GATS của WTO, do đó, chưa nhìn nhận xuất khẩu dịch vụ cũng là một dạng xuất khẩu, chưa có nhiều chính sách và biện pháp khuyến khích, hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho XK dịch vụ,

Liệu xuất khẩu dịch vụ của nước ta có thể cao hơn được không? Câu trả lời chắc chắn là có, miễn là chúng ta hiểu, xây dựng và thực hiện được một chiến lược đúng đắn cho XK dịch vụ.

c - Vấn đề thương hiệu hàng hóa

Hiện tại, hàng hoá của Việt Nam nhìn chung vẫn chỉ được xuất khẩu chủ yếu qua trung gian thứ 3 mà chưa có vị trí tên tuổi trên thị trường. Tại sao vậy? Theo tôi, chúng ta phải làm sao để các thương nhân nước ngoài tin tưởng rằng, khi đã ký với doanh nghiệp Việt Nam là có hàng hóa đảm bảo chất lượng, dịch vụ tốt, thời hạn giao hàng đúng, giá cả hợp lý. Đặc biệt là phải khẳng định được một giá trị rằng, khi họ tiếp cận thương hiệu của mình đồng nghĩa với những cam kết, đảm bảo đó. Tại sao họ biết đó là hàng do Việt Nam sản xuất mà họ vẫn mua qua Singapore hoặc một nước khác, phải chấp nhận mức giá cao hơn? Vì họ chưa yên tâm, thương hiệu mình vẫn chưa thực sự tạo được niềm tin ở họ. Vậy thì, để xuất khẩu thành công, chúng ta phải giải quyết tốt vấn đề này, tức là phải đưa thương hiệu ra nước ngoài và khẳng định được giá trị của nó.

Mặt khác, trước kia và hiện nay, mối lo lắng của người tiêu dùng về tình hình buôn lậu, gian lận hàng hoá từ thị trường nội địa cũng gia tăng. Nếu không kiểm soát được tình hình trên thì sẽ ảnh hưởng đến việc XK. Hiện nay, sau khi gia nhập WTO, một loạt vấn đề về quản lý chất lượng hàng XK, NK và các vấn đề điều hành hiệu quả, biện pháp đối phó với các rào cản thương mại quốc tế, rào cản kỹ thuật và những tác động của địa vị nền kinh tế phi thị trường đối với Việt Nam trong giai đoạn đầu gia nhập WTO cũng là một thách thức không nhỏ.

d - Những yêu cầu đối với hoạt động XTTM

Dưới cách nhìn của các nhà kinh tế, Bộ Công Thương cần phối hợp với các bộ, ngành có liên quan để tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác XTTM; đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan đại diện thương mại Việt Nam ở nước ngoài. Cơ quan này phải tích cực và chủ động tham gia vào các hoạt động thuận lợi hóa thương mại và cùng với Chính phủ, các cơ quan nhà nước Việt Nam đàm phán với các nhà chức trách nước sở tại tạo ra môi trường thuận lợi hơn cho các hoạt động XNK; tích cực nghiên cứu chính sách và xu hướng phát triển của thị trường gắn với thị trường khu vực và thị trường thế giới; đề xuất các chính sách, giải pháp đối với từng thị trường và đẩy mạnh cung cấp thông tin, nâng cao chất lượng nghiên cứu, thông tin, dự báo, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp khai thác hiệu quả cơ hội thị trường, làm cơ sở xây dựng chính sách, giải pháp phát triển XK cho các cơ quan quản lý và doanh nghiệp.

Đồng thời, có chính sách đẩy mạnh phát triển quan hệ thương mại với các nước láng giềng; hỗ trợ các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nâng cao kim ngạch sản xuất; khai thác hiệu quả lợi ích của các Hiệp định thương mại khu vực mà Việt Nam tham gia.

Nhà nước cần cần tạo điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua các rào cản thương mại và tranh chấp, khiếu kiện trong thương mại quốc tế, nhằm đảm bảo sự tăng trưởng bền vững của XK. Các địa phương và doanh nghiệp mong muốn tăng cường hơn nữa vai trò của các hiệp hội và các tổng công ty trong điều hành, hỗ trợ các doanh nghiệp XK.