Chuyên gia Kinh tế trưởng của ADB, ông Yasuyuki Sawada, nhận định: “Các chính phủ trong khu vực đã rất linh hoạt khi ứng phó với tác động của đại dịch COVID-19 thông qua một loạt các giải pháp chính sách, bao gồm nới lỏng tiền tệ và kích thích tài chính.
Điều hết sức quan trọng là các chính phủ và ngân hàng trung ương cần duy trì lập trường chính sách tiền tệ mang tính thích ứng và bảo đảm đủ thanh khoản để hỗ trợ sự ổn định tài chính và phục hồi kinh tế”.
Khu vực Đông Á mới nổi bao gồm Trung Quốc; Hồng Kông (Trung Quốc); In-đô-nê-xi-a; Hàn Quốc; Ma-lai-xi-a; Phi-líp-pin; Xinh-ga-po; Thái Lan và Việt Nam.
Trong giai đoạn từ ngày 15 tháng 6 tới ngày 11 tháng 9, lợi suất trái phiếu chính phủ tại phần lớn các thị trường Đông Á mới nổi đã giảm sút trong bối cảnh các chính sách tiền tệ thích ứng được áp dụng và tăng trưởng yếu trên khắp khu vực.
Trong khi đó, việc cải thiện tâm lý đã dẫn tới sự gia tăng trong các thị trường vốn cổ phần của khu vực và thu hẹp chênh lệch tín dụng, với hầu hết các đồng tiền trong khu vực đều mạnh lên so với đồng đô-la Mỹ (USD).
Trái phiếu bằng đồng nội tệ đang lưu hành trên các thị trường Đông Á mới nổi đạt 17,2 nghìn tỉ USD vào cuối tháng 6, tăng 5,0% so với tháng 3 năm nay và cao hơn 15,5% so với tháng 6 năm 2019.
Tính theo tỉ lệ phần trăm của tổng sản phẩm quốc nội khu vực, trái phiếu bằng đồng nội tệ đang lưu hành của khu vực Đông Á mới nổi đã đạt tới 91,1% vào cuối tháng 6, so với mức 87,8% hồi tháng 3, chủ yếu là do lượng tiền lớn cần thiết để chống lại đại dịch và giảm thiểu tác động của nó.
Lượng phát hành trái phiếu trong khu vực đạt 2 nghìn tỉ trong quý II, tăng 21,3% so với quý I năm nay. Trung Quốc vẫn là nơi có thị trường trái phiếu lớn nhất của khu vực, chiếm tới 76,6% tổng lượng trái phiếu của khu vực tính tới cuối tháng 6.
Thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ của Việt Nam đã giảm 1,7% tại thời điểm cuối tháng 6 năm nay, đạt 58,2 tỉ USD, sau khi có được mức tăng trưởng hằng quý lành mạnh là 10,4% trong quý I.
Điều này chủ yếu là do khối lượng trái phiếu đang lưu hành thấp hơn trong khu vực chính phủ, ngay cả khi lượng trái phiếu doanh nghiệp gia tăng.
Tính tới cuối tháng 6 năm 2020, trái phiếu chính phủ Việt Nam đã thu hẹp 7,8% so với quý trước, đạt mức 50,1 tỉ USD – chiếm 86,2% tổng lượng trái phiếu toàn quốc.
Tuy nhiên, trong quý II, trái phiếu doanh nghiệp đã tăng mạnh ở mức 65,6% so với quý trước, đạt 8 tỉ USD. Nếu tính theo năm, mức tăng trưởng trái phiếu doanh nghiệp đạt 76% vào cuối tháng 6 năm 2020.
Lượng trái phiếu chính phủ đang lưu hành của khu vực đã đạt 10,5 nghìn tỉ USD vào cuối tháng 6, bằng 60,8% tổng giá trị trái phiếu của khu vực. Trong khi đó, trái phiếu doanh nghiệp đạt 6,7 nghìn tỉ USD.
Rủi ro tiêu cực lớn nhất đối với sự ổn định tài chính là đại dịch COVID-19 kéo dài và tồi tệ hơn, có thể làm suy yếu triển vọng kinh tế của khu vực - ADB đang dự báo mức giảm 0,7% cho Châu Á đang phát triển trong năm 2020.
Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm khả năng bất ổn xã hội do tác động kinh tế của đại dịch, cũng như những căng thẳng tiếp tục giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Ấn bản lần thứ ba của báo cáo Giám sát Trái phiếu Châu Á của ADB trong năm nay gồm bốn khung nội dung thảo luận:
Những phần thảo luận này xem xét các xu hướng và thay đổi gần đây trong danh mục của nhà đầu tư trên các thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ ở Châu Á; việc gia tăng sử dụng thanh toán điện tử trong bối cảnh đại dịch COVID-19; sự tăng trưởng của các khoản đầu tư cho môi trường, xã hội và quản trị nhà nước (ESG) trong khu vực giữa dịch COVID-19; và sự vững vàng của các khoản đầu tư ESG trong bối cảnh đại dịch.