EU – Thị trường hàng đầu
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), tính đến hết tháng 6/2018, tổng XK thủy sản đạt 3,98 tỷ USD, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giá trị XK hầu hết các nhóm sản phẩm XK chính đều tăng trưởng dương so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó, tôm tăng 5,1%, cá tra tăng 19,9%, cá ngừ tăng 11,7%, cá các loại khác tăng 12,6%, nhuyễn thể tăng 7,9%, cua ghẹ và giáp khác tăng 4,7%.
Về thị trường, EU, Mỹ và châu Á được xác định là 3 thị trường xuất khẩu mũi nhọn của các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam trong nửa đầu năm 2018. trong đó, EU được xác định là thị trường hàng đầu.
Cụ thể, đối với thị trường EU, trong 6 tháng đầu năm 2018, tổng giá trị XK sang thị trường này đạt 706,5 triệu USD, chiếm 17,7% tổng giá trị XK và tăng 20,2% so với cùng kỳ năm 2017.
Nửa đầu năm nay, nhờ giá trị XK tôm và cá ngừ sang EU tăng trưởng tốt nên tổng kim ngạch XK sang thị trường này đạt mức cao nhất. Cho đến nay, EU là thị trường XK hàng đầu của thủy sản Việt Nam.
Riêng đối với mặt hàng tôm, XK sang thị trường EU trong nửa đầu năm nay đạt mức tăng trưởng dương liên tiếp trong tất cả các tháng là do các DN tôm Việt Nam đang tận dụng tốt các ưu đãi về thuế quan của thị trường này. Hơn nữa, đối thủ chính của tôm Việt Nam là tôm Ấn Độ vẫn tiếp tục gặp khó khăn do chịu chế độ kiểm tra 50% các lô hàng NK tại biên giới các nước EU.
Với cá ngừ, trong 6 tháng đầu năm nay, XK thăn, phile cá ngừ đông lạnh của Việt Nam sang EU tăng hơn 31% , sản phẩm cá ngừ chế biến khác cũng tăng mạnh hơn 305% so với cùng kỳ. Do đó, tổng giá trị XK cá ngừ sang EU trong nửa đầu năm nay đạt 71,1 triệu USD, tăng 22,8% so với cùng kỳ năm trước.
Mở rộng thị trường "khó tính"
Với việc nâng cao chất lượng, đáp ứng tốt các yêu cầu về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, các DN thủy sản đang đẩy mạnh XK sang các thị trường "khó tính".
Đối với thị trường Mỹ, trong 2 quý đầu năm 2018, Mỹ là thị trường XK cá ngừ lớn nhất; thị trường lớn thứ 2 của cá tra Việt Nam và thị trường XK lớn thứ 4 của DN tôm Việt Nam. Mặc dù, giá trị XK cá ngừ sang thị trường này giảm 8,3% so với cùng kỳ năm trước do giá cá ngừ thế giới giảm nhưng tình hình XK vẫn đang tiến triển tương đối tốt.
Ngược lại, với sản phẩm cá tra Việt Nam XK sang Mỹ, giá nguyên liệu trong nước tăng , các DN tranh thủ xuất hàng trong thời điểm cá rô phi Trung Quốc đang bị sụt giảm thị phần từ khi cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đang đà leo thang. Các DN XK thủy sản Việt Nam vẫn coi Mỹ là thị trường XK lớn và trọng điểm không thể đánh mất.
Với thị trường Nhật Bản, tính đến hết tháng 6/2018, tổng giá trị XK thủy sản sang thị trường Nhật Bản đạt 615,5 triệu USD, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước. Đây là thị NK sản phẩm tôm và mực, bạch tuộc lớn thứ 2 của Việt Nam. Giá trị XK tôm sang thị trường Nhật Bản trong thời gian này giảm 11,2% so với cùng kỳ năm 2017 nhưng nhờ nhu cầu tiêu thụ của thị trường này vẫn ở mức cao, giá XK tốt trung bình từ 11 - 14 USD/kg. Trong đó, Việt Nam vẫn là nguồn cung lớn nhất của Nhật Bản.
Tính đến cuối tháng 6/2018, giá trị XK mực, bạch tuộc sang thị trường Nhật Bản đạt 68,2 triệu USD, tăng 8,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Cùng với thị trường Hàn Quốc, XK mực, bạch tuộc sang châu Á đang có triển vọng khả quan.
Hàn Quốc đang là là thị trường XK mực, bạch tuộc hàng đầu và là thị trường XK chả cá và surimi lớn thứ 2 của Việt Nam. Ngoài ra, trong 6 tháng đầu năm nay, giá trị XK tôm sang thị trường Hàn Quốc cũng đạt 190,4 triệu USD, tăng 24% so với cùng kỳ năm trước. Hàn Quốc chiếm gần 37% tổng giá trị XK mực, bạch tuộc của Việt Nam và tiếp tục duy trì ở mức tăng trưởng cao trong nửa đầu năm và dự báo còn tiếp tục trong 6 tháng cuối năm.
Có thể thấy, ASEAN đang là thị trường chuyển hướng của nhiều DN XK thủy sản Việt Nam trong 6 tháng nửa đầu năm nay. Hầu hết nhóm sản phẩm XK sang thị trường này đều đạt mức tăng trưởng dương như: XK tôm tăng 6,3%; XK cá tra tăng 37,7%; XK cá ngừ tăng 24,5%, XK mực, bạch tuộc tăng 28,4%, nhuyễn thể hai mảnh vỏ tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt, trong 6 tháng đầu năm 2018, ASEAN là thị trường XK mặt hàng chả cá và surimi hàng đầu của Việt Nam (cao hơn cả thị trường Hàn Quốc) với tổng giá trị đạt trên 43 triệu USD, tăng 18,4% so với cùng kỳ năm 2017.
Theo nhận định của VASEP, các thị trường lớn tiềm năng nêu trên sẽ là cơ hội tốt nếu các DN thủy sản nỗ lực phát triển sản xuất, kinh doanh, đáp ứng yêu cầu của nhà nhập khẩu, xuất khẩu thủy sản năm 2018 sẽ đạt mức 9-10 tỷ USD.
Ba thị trường mũi nhọn của xuất khẩu thủy sản Việt Nam
TCCT
EU, Mỹ và châu Á được xác định là 3 thị trường xuất khẩu mũi nhọn của các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam trong nửa đầu năm 2018.