Theo báo cáo của Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương) về mực nước các hồ thủy điện trên cả nước, lưu lượng nước về các hồ chứa khu vực Bắc Bộ ngày 24/6/2023 tăng nhanh so với ngày 23/6; khu vực Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ tăng nhẹ; khu vực Duyên hải Nam Trung bộ lưu lượng về hồ thấp, dao động nhẹ.
Mực nước hồ chứa thủy điện khu vực Bắc Bộ tăng nhanh, cao hơn mực nước chết 10 - 20m; khu vực Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ tăng nhẹ; khu vực Tây Nguyên, Duyên hải Nam Trung Bộ giảm nhẹ so với ngày hôm trước, mực nước các hồ nằm trong phạm vi mực nước tối thiểu theo quy định của Quy trình vận hành.
Lưu lượng, mực nước tại các hồ thủy điện khu vực Bắc Bộ tăng nhanh, các hồ chứa này đang nâng cao mực nước, hạn chế huy động phát điện để dự phòng cho đợt nắng nóng tiếp theo, một số hồ vừa, nhỏ, tràn tự do đã phải điều tiết nước lũ. Lượng nước về một số hồ khu vực Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ thấp, chủ yếu điều tiết nước đảm bảo dòng chảy tối thiểu, phát điện cầm chừng để đảm bảo an toàn tổ máy khi vận hành, nâng cao mực nước phát điện.
Cụ thể, một số hồ mực nước thấp gồm Thác Bà, Bản Vẽ, Đồng Nai 3, Thác Mơ. Một số thủy điện phát điện cầm chừng cầm chừng với cột nước, công suất thấp gồm Thác Bà, Bản Vẽ, Thác Mơ, Đồng Nai 3.
Dự báo tình hình thủy văn, lưu lượng nước về 24h tới các hồ khu vực Bắc Bộ tăng nhanh; khu vực Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ tăng nhẹ; khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ giảm nhẹ, ở mức thấp.
Hồ thủy điện khu vực Bắc Bộ
Các hồ thủy điện tại khu vực Bắc Bộ lưu lượng về hồ tăng nhanh so với ngày 23/6: Hồ Lai Châu: 782 m3/s; Hồ Sơn La: 2.220 m3/s; Hồ Hòa Bình: 769 m3/s; Hồ Thác Bà: 341 m3/s; Hồ Tuyên Quang: 901 m3/s; Hồ Bản Chát: 805 m3/s.
Hồ thủy điện | Mực nước hồ ngày 24/6 | Mực nước chết | Mực nước hồ ngày 24/6 so với ngày 23/6 | Mực nước hồ ngày 24/6 so với mực nước chết | Quy định mực nước tối thiểu |
Hồ Lai Châu | 287,32 m | 265 m | +1,65 m | +22,32 m | |
Hồ Sơn La | 181,29 m | 175 m | +0,77 m | +6,29 m | |
Hồ Hòa Bình | 101,69 m | 80 m | +0,06 m | +21,69 m | 81,9 m |
Hồ Thác Bà | 47,04 m | 46 m | +0,22 m | +1,04 m | 46,5 m |
Hồ Tuyên Quang | 101,02 m | 90 m | +1,55 m | +11,02 m | 90,7 m |
Hồ Bản Chát | 443,38 m | 431 m | +2,34 m | +12,38 m |
Cục Điều tiết điện lực (Bộ Công Thương) đánh giá, những ngày vừa qua, lưu lượng nước về các hồ thủy điện khu vực miền Bắc đã được cải thiện, mực nước hiện tại của các hồ Sơn La, Lai Châu, Tuyên Quang, Bản Chát đều đã tích được cao hơn mực nước chết từ 5 đến 9 m, riêng Lai Châu có hồ chứa nhỏ nên mực nước hồ cao hơn mực nước chết xấp xỉ 20 m.
Hiện tại, miền Bắc đang trong thời kỳ lũ sớm, dự kiến trong thời gian tới lưu lượng nước về các hồ miền Bắc tiếp tục tăng và có thể đảm bảo cung cấp điện với phụ tải tính toán trung bình khoảng 421 - 425 triệu kWh/ngày. Trong trường hợp cực đoan không có lũ về, khu vực miền Bắc vẫn có thể sử dụng lượng nước còn lại trong hồ kết hợp với lưu lượng nước tự nhiên về các hồ để đáp ứng nhu cầu phụ tải, tuy nhiên khả năng tích nước sẽ khó khăn.
Tuy nhiên, do mực nước hiện tại của các hồ thủy điện vẫn ở mức thấp, công suất khả dụng của tổ máy vẫn bị suy giảm nên khả năng đáp ứng phụ tải lớn nhất của hệ thống điện miền Bắc vào khoảng 20.500 đến 21.500 MW tuỳ theo khung giờ trong tháng 6.
Trong trường hợp cực đoan không có lũ về hoặc lưu lượng lũ về hồ thấp, khu vực miền Bắc vẫn có thể sử dụng lượng nước còn lại trong hồ kết hợp với lưu lượng nước tự nhiên về các hồ để đáp ứng nhu cầu phụ tải, tuy nhiên khả năng tích nước sẽ khó khăn.
Dự báo, nhiệt độ những ngày cuối tháng 6 và những ngày đầu đến giữa tháng 7 sẽ không cực đoan như những ngày cuối tháng 5 và đầu tháng 6 vừa qua nên nhu cầu sử dụng điện sinh hoạt có khả năng không cao vọt như thời gian qua. Dự báo phụ tải trung bình ngày miền Bắc khoảng 421,7 triệu kWh. Nếu có chế độ vận hành hợp lý và thực hiện tốt, đồng bộ các giải pháp đảm bảo cung ứng điện, hệ thống điện miền Bắc cơ bản đáp ứng nhu cầu phụ tải.
Hồ thủy điện khu vực Bắc Trung Bộ
Các hồ thủy điện khu vực Bắc Trung Bộ lưu lượng về hồ tăng nhẹ so với ngày 23/6: Hồ Trung Sơn: 167 m3/s; Hồ Bản Vẽ: 54 m3/s; Hồ Hủa Na: 32 m3/s; Hồ Bình Điền: 11,7 m3/s; Hồ Hương Điền: 24 m3/s.
Hồ thủy điện | Mực nước hồ ngày 24/6 | Mực nước chết | Mực nước hồ ngày 24/6 so với ngày 23/6 | Mực nước hồ ngày 24/6 so với mực nước chết | Quy định mực nước tối thiểu |
Hồ Trung Sơn | 155,56 m | 150 m | +0,73 m | +5,56 m | 150,7 m |
Hồ Bản Vẽ | 156,71 m | 155 m | +0,24 m | +1,71 m | 173,0 đến 176,5 m |
Hồ Hủa Na | 220,73 m | 215 m | +0,41 m | +5,73 m | 220,7 m |
Hồ Bình Điền | 64,92 m | 53 m | -0,06 m | +11,92 m | 66,8 đến 68,9 m |
Hồ Hương Điền | 50,57 m | 46 m | +0,02 m | +4,57 m | 49,1 đến 50,4 m |
Hồ thủy điện khu vực Đông Nam Bộ
Các hồ thủy điện khu vực Đông Nam Bộ lưu lượng về hồ tăng nhẹ so với ngày 23/6: Hồ Thác Mơ: 101 m3/s; Hồ Trị An: 580 m3/s.
Hồ thủy điện | Mực nước hồ ngày 24/6 | Mực nước chết | Mực nước hồ ngày 24/6 so với ngày 23/6 | Mực nước hồ ngày 24/6 so với mực nước chết | Quy định mực nước tối thiểu |
Hồ Thác Mơ | 199,67 m | 198 m | 0 m | +1,67 m | 201 m |
Hồ Trị An | 53,53 m | 50 m | +0,01 m | +3,52 m | 50,3 m |
Hồ thủy điện khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ
Các hồ thủy điện khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ lưu lượng về hồ thấp, dao động nhẹ so với ngày 23/6: Hồ A Vương: 37,97 m3/s; Hồ Đăkđrink: 20,5 m3/s; Hồ Sông Bung 4: 45,50 m3/s; Hồ Sông Tranh 2: 21,04 m3/s; Hồ Sông Ba Hạ: 127 m3/s; Hồ Sông Hinh: 18 m3/s.
Hồ thủy điện | Mực nước hồ ngày 24/6 | Mực nước chết | Mực nước hồ ngày 24/6 so với ngày 23/6 | Mực nước hồ ngày 24/6 so với mực nước chết | Quy định mực nước tối thiểu |
Hồ A Vương | 361,45 m | 340 m | +0,01 m | +21,45 m | 361,5 đến 363,7 m |
Hồ Đăkđrink | 399,64 m | 375 m | -0,21 m | +24,64 m | 319,9 đến 393,5 m |
Hồ Sông Bung 4 | 217,91 m | 205 m | -0,06 m | +12,91 m | 213,5 đến 215,2 m |
Hồ Sông Tranh 2 | 157,69 m | 140 m | -0,13 m | +17,69 m | 159,6 đến 161,2 m |
Hồ Sông Ba Hạ | 102,6 m | 101 m | +0,1 m | +1,6 m | 102,4 đến 103,2 m |
Hồ Sông Hinh | 203,82 m | 196 m | -0,08 m | +7,82 m | 204,3 đến 205,0 m |
Hồ thủy điện khu vực Tây Nguyên
Các hồ thủy điện khu vực Tây Nguyên lưu lượng về hồ ổn định, tăng nhẹ so với ngày 23/6: Hồ Buôn Kuốp: 157 m3/s; Hồ Buôn Tua Srah: 86 m3/s; Hồ Đại Ninh: 38 m3/s; Hồ Hàm Thuận: 69 m3/s; Hồ Đồng Nai 3: 32.05 m3/s; Hồ Ialy: 58 m3/s; Hồ Pleikrông: 104 m3/s; Hồ Sê San 4: 81 m3/s; Hồ Thượng Kon Tum: 14 m3/s.
Hồ thủy điện | Mực nước hồ ngày 24/6 | Mực nước chết | Mực nước hồ ngày 24/6 so với ngày 23/6 | Mực nước hồ ngày 24/6 so với mực nước chết | Quy định mực nước tối thiểu |
Hồ Buôn Kuốp | 410,65 m | 409 m | +0,63 m | +1,65 m | 468,4 m |
Hồ Buôn Tua Srah | 469,72 m | 465 m | -0,21 m | +4,72 m | 862,4 m |
Hồ Đại Ninh | 866,09 m | 860 m | +0,09 m | +6,09 m | 580,3 m |
Hồ Hàm Thuận | 583,87 m | 575 m | +0,04 m | +8,87 m | 159,6 đến 161,2 m |
Hồ Đồng Nai 3 | 572,29 m | 570 m | +0,1 m | +2,29 m | 571,8 m |
Hồ Ialy | 502,98 m | 490 m | -0,4 m | +12,98 m | 492,4 m |
Hồ Pleikrông | 541,08 m | 537 m | +0,38 m | +4,08 m | 547,6 m |
Hồ Sê San 4 | 210,83 m | 210 m | -0,18 m | +0,83 m | 210,3 m |
Hồ Thượng Kon Tum | 1.145,43 m | 1.138 m | -0,20 m | +7,43 m | 1.141,6 m |
Số liệu từ Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia (A0) cho thấy, ngày 24/6, sản lượng toàn hệ thống điện quốc gia đạt 768,8 triệu kWh, giảm 60 triệu kWh so với ngày 23/6. Trong đó, thủy điện đạt 169,6 triệu kWh, giảm 3 triệu kWh; nhiệt điện than 400,9 triệu kWh, giảm 42,8 triệu kWh; tuabin khí (Gas + dầu DO) 89,2 triệu kWh, giảm 2 triệu kWh; điện mặt trời 80,1 triệu kWh, giảm 10,2 triệu kWh; điện gió 17,8 triệu kWh, tăng 1,8 triệu kWh; nhập khẩu điện 9,2 triệu kWh, giảm 3,8 triệu kWh; nguồn khác 2 triệu kWh, giữ nguyên so với ngày 23/6.
Công suất lớn nhất trong ngày 24/6 rơi vào lúc 15h30, đạt 36.780,7 MW.