Bàn về quy định cấm xuất khẩu di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia trong Luật Di sản văn hóa

Bài báo nghiên cứu "Bàn về quy định cấm xuất khẩu di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia trong Luật Di sản văn hóa" do Trần Ngọc Thúy (Khoa Luật Quốc tế - Trường Đại học Luật, Đại học Huế) thực hiện.

TÓM TẮT:

Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia là những vật được lưu truyền lại, có giá trị cả về lịch sử, văn hóa, khoa học và kinh tế. Chính vì vậy, việc mua bán, trao đổi, mang di vật, cổ vật ra nước ngoài như thế nào để có thể bảo vệ và giữ gìn được những giá trị văn hóa vô giá của đất nước là điều rất quan trọng. Hiện nay, Luật Di sản văn hóa 2024 được ban hành ngày 23/11/2024 (có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2025) đã đưa ra những quy định cấm kinh doanh, mua bán bảo vật quốc gia và cấm xuất khẩu di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia nhằm bảo vệ và tránh mất mát di sản văn hóa của đất nước.

Từ khóa: di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, Luật Di sản văn hóa.

1. Khái quát về quyền sở hữu, xuất khẩu di vật, cổ vật

            Theo quy định tại Luật di sản văn hóa năm 2024 thì “di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học” (Điều 6);  “Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên” (Điều 7) còn “Bảo vật quốc gia là di vật, cổ vật có giá trị đặc biệt quý hiếm, tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học.” (Điều 8) . Đồng thời theo quy định của Luật thương mại Việt Nam 2005, xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng. Như vậy, xuất khẩu di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia là việc đưa các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia này ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.

Trên thế giới, vào thế kỷ 19, nhiều quốc gia bắt đầu khẳng định quyền sở hữu của mình đối với các cổ vật được tìm thấy trong biên giới của họ. Các quốc gia như Ai Cập (1897), Hy lạp (1932), Ý (1939), và Thổ Nhĩ Kỳ (1983) tuyên bố tất cả các cổ vật được phát hiện trên lãnh thổ của họ là tài sản nhà nước. Điều này đánh dấu nỗ lực của các quốc gia trong quá trình bảo vệ di sản văn hóa của mình khỏi bị khai thác và cướp bóc[1].

            Từ năm 1912, nhà nước Ai Cập đã ban hành quy định cấm xuất khẩu di vật, cổ vật từ Ai Cập sang các nước khác, ngoại trừ việc thông qua giấy phép đặc biệt mà chỉ có Cục cổ vật mới có quyền cấp hoặc giữ lại. Nếu ai đó cố gắng mang bất kỳ di vật, cổ vật nào ra khỏi Ai Cập mà không có giấy phép, ngay cả vì lợi ích của người khác sẽ bị tịch thu vì lợi ích của Chính phủ. Sau chiến tranh giành độc lập của Hy Lạp vào năm 1834, chính phủ Hy Lạp tuyên bố rằng bất kỳ cổ vật nào được khai quật trên đất công đều thuộc Chính phủ. Sau đó, Luật số 215 năm 1951 được ban hành, trong đó có các điều khoản đưa ra hình phạt nghiêm khắc đối với hành vi trộm cắp hoặc buôn lậu cổ vật. Luật này cấm hoàn toàn việc mang cổ vật ra khỏi Ai Cập, trừ khi có nhiều mặt hàng tương tự như vậy, với điều kiện là phải được Cục cổ vật chấp thuận. Sự chấp thuận này phải lập thành văn bản, dựa trên biên bản cuộc họp của các Uỷ ban do giám đốc bảo tàng có liên quan, một trong những người phụ trách bảo tàng để kiểm tra và xem xét, với sự hiện diện của đại diện Cục hải quan. Và Luật số 17 năm 1983 được ban hành đã bãi bỏ hoàn toàn mọi hoạt động xuất khẩu cổ vật ra bên ngoài Ai Cập. Đồng thời, hình phạt trong Luật này cũng rất nghiêm khắc, ví dụ buôn lậu di vật cổ vật thì hình phạt sẽ bao gồm phạt tù và phạt tiền từ 5.000 bảng Ai Cập đến 50.000 bảng Ai Cập[2].

            Sự phát triển của các quy định quốc tế chi phối hoạt động xuất khẩu di vật, cổ vật vào những năm cuối thế kỷ XX phải kể đến Công ước UNESCO năm 1970 và Công ước UNIDROIT năm 1995. Công ước UNESCO năm 1970 về các biện pháp cấm và ngăn chặn xuất khẩu, chuyển giao quyền sở hữu bất hợp pháp đối với tài sản văn hóa đã đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc chiến quốc tế chống lại nạn buôn bán bất hợp pháp các đối tượng văn hóa. Công ước cung cấp một cơ chế pháp lý và thể chế để kiểm soát việc lưu thông các hiện vật văn hóa, yêu cầu các quốc gia thành viên thực hiện các biện pháp ngăn chặn việc xuất khẩu và chuyển giao quyền sở hữu bất hợp pháp đối với các di vật, cổ vật như lập danh mục các di vật, cổ vật cấm xuất khẩu, yêu cầu giấy phép xuất khẩu và thực hiện các biện pháp trừng phạt đối với những người tham gia vào hoạt động buôn bán bất hợp pháp. Trong khi đó, Công ước UNIDROIT năm 1995 về các hiện vật văn hóa bị đánh cắp hoặc xuất khẩu bất hợp pháp lại cung cấp một khuôn khổ pháp lý toàn diện cho việc hoàn trả tài sản văn hóa bị đánh cắp. Tuy nhiên, việc ngăn chặn hoạt động xuất khẩu di vật, cổ vật bất hợp pháp còn gặp nhiều thách thức, đặc biệt là ở những quốc gia có hệ thống pháp luật liên bang. Ví dụ, tại Hoa Kỳ, khuôn khổ pháp lý chi phối hoạt động xuất khẩu, buôn bán di vật, cổ vật của Liên bang và tiểu bang vẫn còn nhiều điểm chồng chéo. Đạo luật Tài sản bị đánh cắp quốc gia (NSPA) chỉ bao gồm các hiện vật có giá trị hơn 5.000 đô la.[3]

Ở Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi năm 2009) và một số nghị định như Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa; Nghị định số 088/2002/NĐ-CP ngày 07/11/2002 về quản lý xuất nhập khẩu sản phẩm văn hóa không nhằm mục đích kinh doanh. Ngoài ra, một số thông tư về bảo vệ di tích, cổ vật đã được ban hành như Thông tư số 07/2004/TT-BVHTT ngày 19/02/2004 của Bộ văn hóa thể thao và du lịch quy định trình tự, thủ tục xét duyệt di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; Thông tư số 28/2014/TT-BVHTTDL quy định về quản lý hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế thuộc diện quản lý chuyên ngành văn hóa của Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Theo quy định của pháp luật, di vật, cổ vật không thuộc sở hữu nhà nước, sở hữu của tổ chức chính trị - xã hội, khi xuất khẩu phải có giấy phép đưa di vật, cổ vật ra nước ngoài do Bộ trưởng Bộ văn hóa, Thể thao và du lịch cấp theo các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa. Hiện nay, việc quản lý hoạt động xuất khẩu di vật, cổ vật còn gặp nhiều hạn chế vì sự thiếu hụt của những quy định pháp luật; nhận thức chưa đầy đủ của người dân, chính quyền các cấp về ý nghĩa và giá trị của các di vật, cổ vật; hạn chế về trình độ chuyên môn, năng lực kiểm tra cổ vật của các cán bộ cơ sở và cán bộ hải quan cửa khẩu; chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia chung để kết nối giữa các đơn vị quản lý văn hóa, cảnh sát và hải quan để quản lý cũng như thông báo kịp thời khi có di vật, cổ vật bị đánh cắp đưa ra nước ngoài…

2. Quy định của Luật Di sản văn hóa về xuất khẩu di vật, cổ vật

Luật Di sản văn hóa Việt Nam năm 2024 gồm 9 chương, 102 điều, tăng 2 chương và 29 điều so với luật hiện hành. Trên cơ sở kế thừa những nội dung còn phù hợp theo Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Luật đã đưa ra nhiều quy định liên quan đến việc bảo vệ di sản văn hóa, trong đó có các quy định cấm xuất khẩu di vật, cổ vật nhằm bảo vệ và giữ gìn di sản văn hóa của quốc gia; cấm kinh doanh, mua bán các di vật, cổ vật nhằm tránh tình trạng mất mát di sản văn hóa.

Thứ nhất, Luật Di sản văn hóa năm 2024 quy định rõ việc cấm xuất khẩu những di vật, cổ vật thuộc danh mục bảo vệ của Nhà nước. Điều này nhằm bảo vệ các giá trị văn hóa đặc sắc, đảm bảo sự kế thừa và phát triển di sản văn hóa. Nhà nước sẽ lập danh mục các di vật, cổ vật cần được bảo vệ, trong đó xác định rõ các đối tượng không được xuất khẩu. Việc lập danh mục này sẽ dựa trên các tiêu chí như độ quý hiếm, giá trị lịch sử, văn hóa. Bên cạnh đó, dự thảo Luật cũng quy định rõ quyền sở hữu, quyền khác đối với di sản văn hóa, tạo cơ sở để xác định rõ quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ sở hữu, chủ thể di sản trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản; quy định di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng được chuyển nhượng thông qua mua bán dân sự, trao đổi, tặng cho, thừa kế ở trong nước để gia tăng giá trị của di sản, chỉ cấm kinh doanh mua bán bảo vật quốc gia thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư; cấm kinh doanh xuất khẩu di vật, cổ vật nhằm tránh mất mát di sản văn hóa ra nước ngoài. Đồng thời, quy định các biện pháp quản lý hiệu quả như: Di vật, cổ vật thuộc sở hữu toàn dân phải được quản lý trong các bảo tàng công lập, di tích và các cơ quan, tổ chức Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ thích hợp; khuyến khích các tổ chức, cá nhân sưu tầm và trưng bày di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; quy định hoạt động kinh doanh giám định di vật, cổ vật nhằm ngăn chặn kinh doanh, mua bán trái phép di vật, cổ vật và làm mất mát di sản văn hóa[4].

Thứ hai, Luật cũng nêu rõ các thủ tục cần thiết để quản lý di vật, cổ vật. Nếu phát hiện di vật nào có giá trị cần bảo vệ, cơ quan chức năng sẽ triển khai các biện pháp cần thiết để ngăn ngừa việc xuất khẩu trái phép. Tuy nhiên, Luật cũng quy định di vật, cổ vật thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng được chuyển nhượng thông qua mua bán dân sự, trao đổi, tặng cho, thừa kế ở trong nước để gia tăng giá trị của di sản. Luật di sản văn hóa năm 2024 quy định rõ quyền sở hữu, quyền khác đối với di sản văn hóa, tạo cơ sở để xác định rõ quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ sở hữu, chủ thể di sản trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản; quy định di vật, cổ vật thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng được chuyển nhượng thông qua mua bán dân sự, trao đổi, tặng cho, thừa kế ở trong nước để gia tăng giá trị của di sản, chỉ cấm kinh doanh mua bán bảo vật quốc gia thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư; cấm kinh doanh xuất khẩu di vật, cổ vật nhằm tránh mất mát di sản văn hóa ra nước ngoài. Đồng thời, quy định các biện pháp quản lý hiệu quả như: Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu toàn dân phải được quản lý trong các bảo tàng công lập, di tích và các cơ quan, tổ chức Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ thích hợp; khuyến khích các tổ chức, cá nhân sưu tầm và trưng bày di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; quy định hoạt động kinh doanh giám định di vật, cổ vật nhằm ngăn chặn kinh doanh, mua bán trái phép di vật, cổ vật và làm mất mát di sản văn hóa[5].

Thứ ba, các quy định về xử phạt vi phạm cũng rất quan trọng. Những tổ chức hoặc cá nhân có hành vi xuất khẩu di vật, cổ vật trái phép sẽ phải chịu các hình thức xử phạt nghiêm khắc theo quy định của pháp luật.

Thứ tư, Luật di sản văn hóa đề cập đến việc tham gia vào các công ước quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa, phối hợp với các quốc gia khác trong việc ngăn chặn tình trạng buôn bán trái phép di vật, cổ vật; đồng thời áp dụng những chính sách ưu đãi thuế nhập khẩu đối với các cổ vật có giá trị để bào tồn và phát huy văn hóa dân tộc.

3. Một số gợi mở từ pháp luật quốc tế để hoàn thiện quy định về xuất khẩu di vật, cổ vật trong Luật Di sản văn hóa

                Thứ nhất, cần nghiên cứu quy định quốc tế để đưa ra những quy định cụ thể về việc “hồi hương” cho những di vật, cổ vật đã bị xuất khẩu, buôn bán ra nước ngoài. Ví dụ ở Đức, nhiều hiện vật văn hóa của các quốc gia khác nhau được đưa bất hợp pháp vào Đức. Theo pháp luật hiện hành của Cộng hoà Liên bang Đức, các di vật, cổ vật bị xuất khẩu bất hợp pháp và đang chào bán trên thị trường Đức chưa được đưa về quốc gia xuất xứ và chỉ những đồ vật có nguồn gốc rõ ràng và giấy phép xuất khẩu do quốc gia xuất xứ cấp mới được phép bán trên thị trường Đức. Các quy định quan trọng của quốc tế và châu Âu về việc nhập khẩu di vật, cổ vật đã được đưa vào pháp luật Đức. Theo đó, Công ước UNESCO về các biện pháp cấm và ngăn chặn nhập khẩu, xuất khẩu, chuyển giao quyền sở hữu bất hợp pháp đối với tài sản văn hóa ngày 14/11/1970 đã được phê chuẩn và chuyển thành luật của Đức vào năm 2007. Các quốc gia ký kết cam kết (trong đó có Việt Nam) cam kết ngăn chặn việc buôn bán bất hợp pháp đồ cổ và tác phẩm nghệ thuật. Di vật, cổ vật nhập cảnh bất hợp pháp vào một trong các quốc gia ký kết phải được trả lại[6].

Thứ hai, cần tạo một cơ sở dữ liệu chung thống nhất trên toàn quốc để các cơ quan chuyên môn cũng như cảnh sát, hải quan có thể nắm được các thông tin chính xác về di vật, cổ vật, giúp ngăn chặn việc xuất khẩu di vật, cổ vật có giá trị ra nước ngoài. Đồng thời, cần có sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Hải quan, Công an, các bảo tàng và viện nghiên cứu…)  giúp tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát và bảo vệ các di vật, cổ vật. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có trách nhiệm quản lý và bảo tồn di sản văn hóa quốc gia. Họ thường thực hiện các quy định về việc xuất khẩu di sản, bao gồm cấp giấy phép và kiểm tra tính hợp pháp của các hiện vật trước khi xuất khẩu. Tổng cục hải quan thực hiện các biện pháp kiểm tra, giám sát hàng hóa xuất khẩu tại cửa khẩu. Hải quan có vai trò quan trọng trong việc phát hiện và ngăn chặn việc xuất khẩu di sản văn hóa trái phép. Cán bộ hải quan cần được đào tạo để nhận biết các loại di vật, cổ vật và hiểu biết về luật pháp liên quan đến việc bảo vệ di sản văn hóa. Lực lượng công an và hải quan có thể tiến hành kết hợp để kiểm tra và giám sát các lô hàng xuất khẩu có dấu hiệu nghi ngờ liên quan đến di vật, cổ vật (kiểm tra giấy tờ, xác minh nguồn gốc và giá trị của hiện vật). Khi phát hiện các trường hợp vi phạm, cần nhanh chóng xử lý theo quy định của pháp luật, đồng thời thực hiện các biện pháp thu hồi và bảo tồn di sản đã bị xuất khẩu trái phép.

                Thứ ba, thành lập cơ quan tiếp nhận và hoàn trả di sản văn hóa. Về vấn đề này, chúng ta có thể rút ra bài học từ kinh nghiệm của Ai Cập trong việc thành lập cơ quan hoàn trả di sản văn hóa. Ai Cập là một trong bốn nền văn minh cổ đại, giàu tài nguyên di sản văn hóa nhưng trong lịch sử, Ai Cập đã bị chiến tranh tàn phá và một số lượng lớn di sản văn hóa đã bị hư hại, cướp bóc và xuất khẩu ra nước ngoài. Vì vậy, Ai Cập đã thành lập Cơ quan hoàn trả cổ vật để theo dõi khoảng 40 di sản văn hóa lớn trên thế giới. Ngoài ra, các đại sứ quán Ai Cập ở nước ngoài rất chú ý đến các cuộc đấu giá và chuyển nhượng di sản văn hóa Ai Cập ở các quốc gia sở tại. Trong trường hợp phát hiện di sản văn hóa liên quan đến Ai Cập có liên quan đến các hoạt động đấu giá, chuyển nhượng và triển lãm, Cơ quan quản lý tài sản có thể liên hệ với cơ quan hoặc cá nhân có liên quan ngay từ đầu để yêu cầu cơ quan hoặc cá nhân đó xuất trình bằng chứng, tài liệu tương ứng để chứng minh quyền sở hữu hợp pháp của mình đối với tài sản. Khi chứng minh được những di vật, cổ vật đó là bất hợp pháp Ai Cập sẽ gây áp lực lên quốc gia chủ nhà thông qua các biện pháp như ngoại giao và trả lại. Nếu quốc gia chủ nhà không hợp tác, Ai Cập sẽ xem xét chấm dứt mọi hoạt động trao đổi với quốc gia đó liên quan đến việc khai quật và trưng bày các di tích văn hóa[7].

4. KẾT LUẬN

            Việc cấm xuất khẩu di vật, cổ vật theo dự thảo Luật Di sản văn hóa có nhiều tác động quan trọng đến việc bảo vệ di sản văn hóa, khuyến khích bảo tồn, phát triển các di sản. Cấm xuất khẩu giúp ngăn chặn việc mất mát di sản văn hóa quý giá, bảo tồn giá trị lịch sử và văn hóa cho thế hệ tương lai. Đồng thời, nâng cao nhận thức của cộng đồng để các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm hơn trong việc bảo tồn di sản, từ đó thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, trưng bày và giáo dục về di sản văn hóa.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:



[1] International Laws Governing the Trade of Antiquities, https://blockapps.net/blog/international-laws-governing-the-trade-of-antiquities/.

[2] https://www.unodc.org/documents/treaties/organized_crime/Egypt.pdf

[3] International Laws Governing the Trade of Antiquities. Available at: https://blockapps.net/blog/international-laws-governing-the-trade-of-antiquities/.

[4] Trung Hưng (2024). Xác định rõ quyền lợi, trách nhiệm chủ sở hữu trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản. Truy cập tại: https://nhandan.vn/xac-dinh-ro-quyen-loi-trach-nhiem-chu-so-huu-trong-bao-ve-va-phat-huy-gia-tri-di-san-post814947.html.

[5] Trung Hưng (2024). Xác định rõ quyền lợi, trách nhiệm chủ sở hữu trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản, truy cập tại: https://nhandan.vn/xac-dinh-ro-quyen-loi-trach-nhiem-chu-so-huu-trong-bao-ve-va-phat-huy-gia-tri-di-san-post814947.html.

[6] Clear Guidelines for the Protection of Cultural Heritage, https://www.preussischer-kulturbesitz.de/en/priorities/protection-of-cultural-heritage/illegal-excavations-and-trafficking/clear-guidelines.html?sword_list%5B0%5D=SPK&cHash=5cdb011c5952e3f2229a4075790eb5b9

[7] Lu Meng, Restitution of Cultural Heritage under International Law, 3rd International Conference on Education, Culture and Social Development (ICECSD 2019), 344.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2012). Thông tư số 19/2012/TT-BVHTTDL quy định loại di vật, cổ vật không được mang ra nước ngoài.

Công ước Hague (1954) về Bảo vệ tài sản văn hóa trong trường hợp xung đột vũ trang

Công ước UNESCO (1970) về các biện pháp cấm và ngăn chặn xuất khẩu, chuyển giao quyền sở hữu bất hợp pháp đối với tài sản văn hoá

Mỹ Linh (2021). Đề xuất miễn thuế nhập khẩu với di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Truy cập tại: https://lsvn.vn/de-xuat-mien-thue-nhap-khau-voi-di-vat-co-vat-bao-vat-quoc-gia-a149090.html.

Quốc hội (2009). Luật Di sản văn hóa Việt Nam năm 2001 (sửa đổi năm 2009).

Quốc hội (2024). Luật Di sản văn hóa Việt Nam năm 2024

Trung Hưng (2024). Xác định rõ quyền lợi, trách nhiệm chủ sở hữu trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản, truy cập tại: https://nhandan.vn/xac-dinh-ro-quyen-loi-trach-nhiem-chu-so-huu-trong-bao-ve-va-phat-huy-gia-tri-di-san-post814947.html.

UNESCO. Công ước về các biện pháp cấm và ngăn chặn việc nhập khẩu, xuất khẩu và chuyển giao quyền sở hữu bất hợp pháp đối với tài sản văn hóa. Truy cập tại:  https://www.unesco.org/en/legal-affairs/convention-means-prohibiting-and-preventing-illicit-import-export-and-transfer-ownership-cultural.

National report on the implementation of the Convention on the Means of Prohibiting and Preventing the Illicit Import, Export and Transfer of Ownership of Cultural Property: Vietnam,  https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000388020.

Presevation of Antiquities and Relics Act (2011). Available at:                      

https://www.barbadosparliament.com/htmlarea/uploaded/File/Act/2011/Preservation%20of%20Antiquities%20and%20Relics%20Act,%202011.pdf

International Laws Governing the Trade of Antiquities. Available at: https://blockapps.net/blog/international-laws-governing-the-trade-of-antiquities/.

 

An Examination of the Export Ban on Historical Relics, Antiquities, and National Treasures under the Cultural Heritage Law

Tran Ngoc Thuy

University of Laws, Hue University

ABSTRACT:

Historical relics, antiquities, and national treasures embody invaluable assets that carry profound historical, cultural, scientific, and economic significance. The trade, exchange, and removal of such objects beyond national borders present a critical challenge to the preservation of a nation’s irreplaceable heritage. In response to this challenge, the Cultural Heritage Law of 2024, enacted on 23 November 2024 and effective as of 1 July 2025, establishes strict prohibitions on the commercial trafficking and export of national treasures, as well as on the export of relics and antiquities. This literature review analyzes the legal foundations and practical implications of these prohibitions, assesses their adequacy in safeguarding cultural patrimony, and identifies areas in which further refinement may strengthen protection and enforcement mechanisms.   

 Keywords: relics, antiques, national treasures, Law on cultural heritage.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 13/2025]