TÓM TẮT:
Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung (SĐ, BS) năm 2017) đã được ban hành với nhiều quy định cụ thể được sửa đổi, bổ sung. Quá trình thi hành những quy định đó trên thực tế gặp không ít khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ bằng hướng dẫn cụ thể của cơ quan có thẩm quyền. Ngày 13/9/2019, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã ban hành công văn số 212/TANDTC - PC thông báo kết quả giải đáp một số vướng mắc trong xét xử tại phiên họp trực tuyến ngày 29/7/2019. Trong phạm vi bài viết này, tác giả nêu một số khó khăn vướng mắc về lý luận và thực tiễn áp dụng quy định về Tội cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự quy định tại Điều 201 BLHS năm 2015 (SĐ, BS năm 2017). Trên cơ sở đó, tác giả phân tích những nội dung giải đáp vướng mắc của Công văn số 212/TANDTC - PC về tội danh này; đồng thời phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định và phát sinh trong thực tế thi hành quy định về tội danh này, do hiện tại chưa có văn bản hướng dẫn.
Từ khóa: Công ty tài chính, giao dịch dân sự, khách hàng, vay lãi nặng.
1. Đặt vấn đề
“Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” tiền thân là “Tội cho vay lãi nặng” được quy định từ BLHS năm 1985 đến BLHS năm 1999. Qua quá trình thi hành, quy định của BLHS năm 1999 về tội danh này đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, làm cho quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội này gặp phải những khó khăn. Bên cạnh đó, những năm vừa qua, hoạt động cho vay nặng lãi của các nhóm tội phạm có những diễn biến phức tạp, số vụ án được phát hiện ngày càng có quy mô lớn, diễn ra trên phạm vi rộng với thủ đoạn ngày càng tinh vi, đa dạng như thành lập các “công ty tài chính” trá hình, ứng dụng internet, mạng xã hội, công nghệ thông tin để quảng bá và lôi kéo “khách hàng”, kéo theo những hoạt động tội phạm khác nhằm mục đích thu hồi nợ của người vay, như: cố ý gây thương tích, cưỡng đoạt tài sản, gây rối trật tự công cộng,… khi người vay không trả được nợ. Điều này càng đòi hỏi quy định của pháp luật cần nhanh chóng được hoàn thiện để làm cơ sở xử lý hành vi phạm tội này một cách rõ ràng, triệt để hơn, đảm bảo yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Khi BLHS năm 2015 được ban hành (SĐ, BS năm 2017), tên tội danh này đã được sửa đổi thành “Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự quy định tại Điều 201. Quy định về tội danh này tại BLHS hiện hành đã kịp thời sửa đổi, bổ sung những quy định của BLHS năm 1999, khắc phục những hạn chế, khó khăn khi thi hành quy định cũ, như: trong việc chứng minh dấu hiệu “có tính chất chuyên bóc lột” của người cho vay; trong việc tính mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định; xác định dấu hiệu định khung thu lợi bất chính lớn như thế nào,... Quy định mới cũng phù hợp, thống nhất với các quy định mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Tuy nhiên, quy định về tội danh này trong BLHS năm 2015 (SĐ, BS năm 2017) vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất định, dẫn đến các quan điểm và cách áp dụng pháp luật giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng còn chưa được thống nhất. Ví dụ như: áp dụng tình tiết định tội đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cho vay lãi nặng, tính khả thi của quy định này khi các văn bản về xử lý vi phạm hành chính chưa có quy định; cách xác định khoản tiền thu lợi bất chính để làm căn cứ định tội tại Khoản 1 và áp dụng tình tiết định khung tăng nặng tại Khoản 2; một số khó khăn trong việc xác định tư cách tham gia tố tụng của người vay tiền trong vụ án, áp dụng pháp luật để xử lý khoản tiền thu lợi bất chính từ việc cho vay lãi nặng hay trong việc xử lý đối với khoản tiền người phạm tội dùng để cho vay (tiền gốc) và khoản lãi tương ứng với mức lãi suất 20%/năm.
2. Hướng dẫn của Công văn số 212/TANDTC-PC đã giải quyết triệt để một số vướng mắc đối với Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
Để góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, hành chính, dân sự và kinh doanh, thương mại nói chung và vụ án về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự nói riêng, ngày 29/7/2019, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức phiên họp trực tuyến để giải đáp một số vướng mắc trong xét xử. Trên cơ sở các ý kiến phản ánh vướng mắc và giải đáp của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 (gọi tắt là Công văn số 212) thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử, trong đó có nội dung giải đáp vướng mắc về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Nội dung hướng dẫn của Tòa án tối cao được các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng trong quá trình tiến hành tố tụng đối với vụ án. Những nội dung đó đã phần nào giải quyết những vướng mắc khi áp dụng quy định của BLHS để xử lý đối với Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
Vướng mắc thứ nhất, về cách xác định khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự. Công văn số 212 đã nêu rõ: Khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự là khoản tiền lãi thu được sau khi trừ đi tiền lãi theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 mà không phải là tổng số tiền lãi thu được từ việc cho vay. Bởi vì, theo quy định tại Khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay...”. Như vậy, số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất từ 20%/năm trở xuống của khoản vay không được coi là tiền thu lợi bất chính để buộc người cho vay phải chịu trách nhiệm hình sự. Tiền thu lợi bất chính được xác định là số tiền lãi thu được từ mức lãi suất trên 20%/năm trở lên.
Công văn này cũng đã xác định, trong trường hợp người phạm tội cho nhiều người khác vay tiền thì khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự là tổng số tiền lãi mà người phạm tội thu được của tất cả những người vay nếu hành vi cho vay lãi nặng được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian. Trường hợp một người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, mà tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần phạm tội từ 100 triệu đồng trở lên, nếu các lần phạm tội đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, ngoài việc bị áp dụng khung hình phạt tương ứng với trị giá tài sản chiếm đoạt, người phạm tội còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 52 của BLHS năm 2015 (SĐ, BS năm 2017).
Vướng mắc thứ hai, việc áp dụng pháp luật để xử lý các khoản tiền trong vụ án cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Theo quy định tại điều 201 BLHS năm 2015 (SĐ, BS năm 2017) và hướng dẫn của Công văn số 212, trong vụ án có 3 khoản tiền: tiền gốc, tiền lãi thu được từ lãi suất 20%/năm trở xuống và tiền lãi thu được từ lãi suất trên 20%/năm trở lên, ba khoản tiền này có cách xử lý khác nhau:
Trên cơ sở quy định tại Khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015: “Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực”. Công văn số 212 xác định khoản tiền lãi tương ứng với mức lãi suất trên 20%/năm là khoản tiền mà người phạm tội thu lợi bất chính của người vay nên được trả lại cho người vay tiền, trừ trường hợp người vay sử dụng tiền vay vào mục đích bất hợp pháp (như đánh bạc, mua bán trái phép chất ma túy...), khoản tiền thu lợi bất chính bị tịch thu sung công quỹ nhà nước.
Đối với khoản tiền cho vay (tiền gốc) được xác định là phương tiện phạm tội, sẽ bị tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Đối với khoản tiền lãi tương ứng với mức lãi suất 20%/năm, tuy không bị tính để xác định trách nhiệm hình sự, nhưng đây cũng là khoản tiền phát sinh từ tội phạm. Đồng thời, hoạt động cho vay lãi nặng thường gắn với các băng nhóm tội phạm. Do đó, để bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, Tòa án phải tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước khoản tiền này.
Vướng mắc thứ ba, xác định tư cách tham gia tố tụng của người vay tiền trong vụ án cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, Công văn số 212 nêu rõ: Theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, người vay tiền trong trường hợp này tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án mà không phải với tư cách là bị hại.
Hướng dẫn của Công văn số 212 đã giải quyết triệt để 3 vướng mắc trên trong quá trình áp dụng pháp luật để xử lý đối với loại tội phạm này một cách tương đối đầy đủ, rõ ràng.
3. Một số bất cập đối với Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
Tuy nhiên, thực tế áp dụng quy định của pháp luật cho thấy vẫn còn một số vướng mắc trên thực tế chưa được Công văn số 212 giải quyết.
Bất cập thứ nhất, là Điều 201 BLHS năm 2015 năm 2015 (SĐ, BS năm 2017), đã bổ sung dấu hiệu định tội mới là đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cho vay lãi nặng mà còn vi phạm. Tuy nhiên, hiện tại, chưa có văn bản để quản lý và xem xét xử lý hành chính đối với hành vi cho vay lãi nặng, đây là một hạn chế trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tín dụng phi chính thức này. Quy định duy nhất về vấn đề này là Điểm d Khoản 3 Điều 11 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng chống bạo lực gia đình quy định: Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi: “cho vay tiền có cầm cố tài sản, nhưng lãi suất cho vay vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm cho vay”. Như vậy, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP chỉ quy định xử phạt đối với hành vi cho vay tiền có cầm cố tài sản mà không có quy định xử phạt đối với hành vi cho vay lãi nặng không có cầm cố tài sản. Điều này dẫn đến việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cho vay lãi nặng không cầm cố tài sản (hình thức phổ biến hiện nay) rất khó thực hiện. Từ đó, dẫn đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi cho vay lãi nặng nhưng trước đó đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cho vay lãi nặng trong giai đoạn hiện nay hầu như không thể căn cứ quy định này để xem xét định tội đối với hành vi này. Điều này, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải bổ sung văn bản, quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự để đảm bảo tính toàn diện vủa việc xử lý vi phạm hành chính cũng như tạo căn cứ để áp dụng quy định của BLHS hiện hành đối với Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
Bất cập thứ hai, bất cập này cho đến hiện nay vẫn chưa được giải quyết đó là việc vay tài sản trong thực tế hiện nay có thể là vay tiền, vay vàng hoặc vay các tài sản khác. Tuy nhiên, lãi suất cho vay được quy định trong Bộ luật Dân sự 2015 làm căn cứ tính lãi nặng mới chỉ quy định lãi suất đối với tài sản cho vay là tiền mà chưa quy định lãi suất cho vay đối với các tài sản khác như vàng hay thóc (lúa) và các tài sản khác. Do vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu để hướng dẫn cụ thể vấn đề lãi suất đối với hợp đồng vay tài sản khác không phải là tiền làm căn cứ cho việc giải quyết các vụ án hình sự cũng như các tranh chấp dân sự.
Bất cập thứ ba, về pháp nhân thực hiện hành vi cho vay lãi nặng. Theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), các tổ chức tín dụng được thực hiện hoạt động ngân hàng, trong hoạt động ngân hàng có cả hoạt động cấp tín dụng, trong hoạt động cấp tín dụng bao gồm cả hoạt động cho vay. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 76 BLHS hiện hành, các pháp nhân thương mại này lại không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự dù có thực hiện hoạt động cho vay với lãi suất từ 100%/năm trở lên. Hay nói cách khác, các giao dịch cho vay lãi nặng của các tổ chức không bị xử lý mặc dù nó có thể bị các đối tượng lợi dụng, núp bóng để thực hiện hoạt động cho vay lãi nặng trên thực tế. Đây là điều mà các nhà làm luật cần nghiên cứu, xem xét, để đảm bảo xử lý đầy đủ và kịp thời đối với loại tội phạm này ở nước ta hiện nay.
4. Kết luận
Qua những nội dung đã phân tích trên cho thấy, đến nay, cùng với quy định tại Điều 201 BLHS (SĐ, BS năm 2017), Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân tối cao đã giải quyết được phần lớn những vướng mắc về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trong thời gian qua. Tuy nhiên, về mặt quy định cũng như tình hình tội phạm trên thực tế, việc xử lý loại tội phạm này vẫn còn một số vướng mắc, bất cập cần được tiếp tục nghiên cứu để bổ sung và hoàn thiện, giúp cho việc áp dụng pháp luật được thống nhất, rõ ràng, tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho việc xử lý loại tội phạm này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
- Bộ luật Hình sự năm 1999.
- Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Bộ luật Dân sự năm 2015.
- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Nghị định số 167/2013/NĐ-CP, ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.
- Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân tối cao, về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử.
LIMITATIONS AND SHORTCOMINGS IN PROVISIONS ON THE CRIME OF MAKING SUPER HIGH INTEREST LOANS IN CIVIL TRANSACTIONS OF THE CRIMINAL CODE 2015 (AMENDED AND SUPPLEMENTED IN 2017)
Master. LE THI MINH THU
Lecturer, Faculty of Law, Ho Chi Minh City University of Technology
ABSTRACT:
The Criminal Code 2015 (amended and supplemented in 2017) was promulgated with many specific provisions being amended and supplemented. In fact, the implementation of these regulations faces many difficulties and problems that need to be solved by specific guidance of state agencies. On September 13, 2019, the Supreme People's Court issued the document No. 212/TANDTC - PC announcing the results of answering a number of obstacles in trial at an online meeting on July 29, 2019. This article presents difficulties in the theory and practice of applying the provisions on the crime of making super high interest loans in civil transactions which are under the Article 201 of the Criminal Code 2015 (amended and supplemented in 2017). On that basis, this article analyzes the answers to problems of the document No. 212/TANDTC - PC on this crime and also examines some limitations and shortcomings in the regulations arising in practice of implementing the regulations on this crime.
Keywords: Financial institution, civil transaction, customer, super high interest loan.