Các dữ liệu dự báo cho thấy, BĐKH có thể gây tác động đến tài nguyên khoáng sản theo nhiều phương thức khác nhau. Đó là việc cường hóa các tai biến thiên nhiên, điển hình là vùng hạ du, đới ven biển khi mực nước biển dâng cao sẽ gây xói lở, bồi tụ, cát di động… Tại khu vực miền núi, trung du, BĐKH với các đợt mưa thất thường, cường độ lớn sẽ gây lũ quét, lũ bùn đá, sạt lở…
Các nghiên cứu ban đầu cũng chỉ ra rằng, các tai biến khác như xói lở, cát di động, bão lụt, khi bị gia tăng bởi BĐKH cũng góp phần tàn phá cảnh quan các mỏ khoáng sản, gây khó khăn cho công tác điều tra, đánh giá, thăm dò và khai thác khoáng sản. Nguy hại hơn, nó còn làm phát tán các kim loại độc hại từ chất thải mỏ, gây ô nhiễm môi trường.
Với các vùng núi và trung du, sự cường hóa các tai biến lũ quét, lũ bùn đá, trượt lở, lốc xoáy cũng gây lên những tác động tiêu cực đối với các điểm mỏ tài nguyên khoáng sản tại các khu vực này. Thực tế thời gian qua đã có không ít điểm mỏ quan trọng bị thiên nhiên tàn phá, vùi lấp. BĐKH làm thay đổi chế độ mưa, hạn hán tăng vào mùa khô và lũ lụt tăng vào mùa mưa.
Việc gia tăng số ngày nắng nóng bất thường có thể làm tăng đột ngột nhu cầu tiêu thụ điện cho sinh hoạt của cả khu vực thậm chí cả miền. Điều này có thể dẫn đến những khó khăn trong việc cấp điện hoặc thậm chí có thể xảy ra sự cố với mạng lưới điện quốc gia và do vậy ảnh hưởng đến việc cấp điện cho hoạt động ngành khai khoáng. Đối với hoạt động khai thác than hầm lò, nếu mất điện, sẽ ảnh hưởng đến hoạt động thông gió và không thể sản xuất được. Theo số liệu thống kê của những đơn vị đã khảo sát, số giờ mất điện lưới có xu hướng tăng lên. Chính vì vậy, chi phí cho việc chạy máy phát điện của các đơn vị cũng đã gia tăng. Nhiệt độ cao dẫn đến việc phải tăng chi phí cho hệ thống thông gió, làm mát. Kết quả điều tra cũng cho thấy, mức tiêu thụ điện trên một đơn vị sản phẩm tại một số đơn vị khai khoáng có xu hướng ngày càng cao. Chẳng hạn như, nhiệt độ tăng đã khiến cho Công ty Apatit Lào Cai phải thực hiện lắp điều hòa cho các xe tải chở quặng, năng suất lao động của công nhân giảm. Mùa khô hạn hán tăng, khiến cho việc cấp nước cho hoạt động tuyển quặng tại các công ty khai khoáng gặp khó khăn vì nước cấp cho các nhà máy tuyển chủ yếu là từ các con suối.
BĐKH làm mưa lũ gia tăng vào mùa mưa gây khó khăn lớn cho hoạt động sản xuất khai thác, quá trình vận chuyển tại các mỏ khai thác khoáng sản làm thiệt hại lớn về người và của đối với các doanh nghiệp. Năm 2007, mưa lũ lớn đã làm tràn đất thải tại Khe Dè của Công ty Than Cọc Sáu. Một lượng đất thải lớn đã bị tràn ra và theo suối chảy ra Cửa Ông, gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, trên đường di chuyển, lượng đất đá này đã tràn vào một số hộ dân, phá hoại nhà cửa và hoa màu. Tổng thiệt hại ước tính khoảng 18 tỷ đồng. Ngày 12-11-2010, tại lò Thượng mức +38 đến +100, vỉa 11, khu Nam, Phân xưởng Đào lò 2 ( thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh) do Công ty Than Dương Huy (thuộc Vinacomin) đang khai thác xảy ra một vụ bục nước lò khiến ba công nhân tử nạn và một người bị thương.
Mưa lũ sẽ ảnh hưởng tới hoạt động khai thác lộ thiên lớn hơn so với khai thác hầm lò. Theo đánh giá chung tại các đơn vị điều tra, khi có mưa lớn sẽ làm giảm khoảng 20-30% sản lượng khai thác lộ thiên và khoảng 10-15% khai thác hầm lò. Ngoài ra, các đơn vị cũng sẽ tiêu tốn một lượng kinh phí không nhỏ cho việc bơm thoát nước. Đối với các mỏ khai thác tới độ sâu lớn (thấp hơn mực nước suối xung quanh), vào mùa mưa, nước mưa ngấm xuống khá nhiều, làm ảnh hưởng đến thi công, thậm chí phải dừng việc khai thác. Tại Mỏ sắt Thạch Khê, trận mưa lũ thứ 2 (từ 14 đến 19/10/2010) làm nước trong lòng mỏ dâng cao, gây ảnh hưởng đến hệ thống bơm 1.250m3/h và gây nguy cơ phá vỡ đoạn đê bao ngăn nước phía Nam lòng mỏ. Để khắc phục các công trình hư hỏng và bơm hết khối lượng nước chảy vào lòng mỏ phải mất thêm từ 20- 30 ngày. Giá trị thiệt hại về kinh tế do lũ phá hủy khoảng 13 tỷ đồng (bao gồm các công trình hư hỏng, công bơm nước, nạo vét moong...) và làm chậm tiến độ bóc đất tầng phủ khoảng 1 tháng.
Tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một trong những nơi rất nhạy cảm của vấn đề BĐKH. Khu vực này có rất nhiều sông, rạch lớn chảy qua. Theo thống kê, ĐBSCL có tổng diện tích 34.322km2, trong đó 18.066km2 đất thuộc các huyện ven biển. Trong các thập kỷ gần đây, yếu tố khí tượng thuỷ văn tại ĐBSCL tiếp tục thay đổi theo chiều hướng xấu. Các thiên tai như bão tố, lụt lội, xâm nhập mặn, thủy triều dâng cao bất thường,... xảy ra thường xuyên hơn và khó dự đoán. Chính vì vậy, một số xí nghiệp khai khoáng đặt sát bờ biển, bờ sông như sông Vàm Cỏ Đông, sông Đồng Nai, sông Tiền Giang... (do nước biển dâng sẽ dẫn đến hiện tượng bồi lắng và thủy triều dâng bất thường), đặc biệt, những xưởng được xây dựng ở vùng đất thấp, như các cơ sở khai thác cát đen, cát vàng,… sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị ngập mất một phần mặt bằng và đối mặt với thách thức trong vấn đề tiêu thoát nước. Qua đó, đòi hỏi ngành công nghiệp khai khoáng khu vực này phải tăng chi phí đầu tư xây dựng các xưởng mới, các hệ thống tiêu thoát nước, hoặc áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro.
Ngược lại, ngành công nghiệp khai thác khoáng sản cũng tác động lớn đến môi trường làm gia tăng BĐKH. Các hoạt động khai thác khoáng sản đã gây ra nhiều tác động xấu đến môi trường xung quanh, tác động xấu đến cảnh quan và hình thái môi trường do diện tích rừng bị thu hẹp; tích tụ hoặc phát tán chất thải rắn; làm ảnh hưởng đến nguồn nước, ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí, ô nhiễm đất; làm ảnh hưởng đến đa dạng sinh học; gây tiếng ồn và chấn động môi trường; tác động đến kinh tế - xã hội; gây ảnh hưởng đến sức khoẻ và an toàn của người lao động. Việc đốt nhiên liệu hóa thạch thải ra một lượng khí CO2 rất lớn bằng khoảng 85% tổng lượng khí phát thải từ hoạt động của con người. Hoạt động của ngành công nghiệp khai khoáng làm phát sinh khí một lượng khí CO2 khá lớn từ hoạt động đốt cháy và tiêu thụ nhiên liệu (dầu, than, xăng, khí gas, điện) cho các hoạt động của các máy móc khai thác, chế biến, lò luyện kim, phương tiện vận chuyển… Ước tính tổng sản lượng ngành Than là 30 triệu tấn, thì tổng lượng dầu và điện tiêu thụ lần lượt là 235 triệu lít/năm (tương đương 705.000 tấn CO2/năm) và 370 triệu kWh/năm (tương đương khoảng 259.000 tấn CO2/năm). Như vậy, tổng lượng CO2 phát thải ước tính do việc tiêu thụ nhiên liệu và năng lượng của ngành Than Việt Nam là 964.000 tấn CO2. Trong bầu khí quyển, hàm lượng khí Metan chỉ bằng khoảng 0,5% CO2, nhưng nó là một khí có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu ứng nhà kính (mức độ ảnh hưởng lớn gấp 21 lần khí CO2).
Để ứng phó với BĐKH và nước biển dâng đối với ngành công nghiệp khai khoáng, các doanh nghiệp cần tập trung thực hiện các giải pháp lồng ghép vấn đề BĐKH trong quy hoạch phát triển ngành khai khoáng; Xây dựng hệ thống trao đổi thông tin về BĐKH ngành khai khoáng với các ngành khác; Đầu tư trang thiết bị, nâng cấp cơ sở hạ tầng, phát triển công nghệ, đồng bộ và đào tạo, tập huấn nâng cao nhận thức cho cán bộ và chủ các doanh nghiệp trong khai thác khoáng sản tại các mỏ đặc biệt là các mỏ khai khoáng ven biển; Quy hoạch, gia cố các đập chắn hồ chứa bùn thải trong quá trình khai thác khoáng sản để đảm bảo an toàn.
Ứng phó với BĐKH, sự nỗ lực của doanh nghiệp không là chưa đủ, mà cần thiết phải có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, đặc biệt là của bộ chủ quản, chính vì vậy vai trò của Bộ Công Thương trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc Bộ ứng phó với BĐKH có ý nghĩa quyết định trong giai đoạn đầu của Chương trình Ứng phó với BĐKH này. Các chuyên gia cho rằng, Bộ Công Thương cần tập trung vào các dự án như: Dự án kiểm kê phát thải khí nhà kính; ự án xây dựng bộ dữ liệu về phát thải khí nhà kính ngành Công Thương; Dự án triển khai thí điểm xử lý khí nhà kính một số ngành thuộc Bộ Công Thương; Dự án nghiên cứu thay thế nhiên liệu hóa thạch bằng năng lượng mới và năng lượng tái tạo; Dự án chuyển đổi nhiên liệu hóa thạch bằng nhiên liệu mới thân thiện môi trường; Thành lập Quỹ hỗ trợ ứng phó với BĐKH ngành Công Thương; Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện các giải pháp giảm thiểu phát thải khí nhà kính…. Những dự án này sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp giúp cho các doanh nghiệp trong Ngành chủ động đưa ra các biện pháp thích ứng, ứng phó với BĐKH để phát triển bền vững.