Loại nhiên liệu này có nhiều ưu điểm nổi bật so với các loại nhiên liệu truyền thống (dầu khí, than đá...), vì tính chất thân thiện với môi trường, ít gây ô nhiễm môi trường hơn các loại nhiên liệu truyền thống. Tuy nhiên, hiện nay vấn đề sử dụng NLSH vào đời sống còn nhiều hạn chế, do chưa hạ được giá thành sản xuất xuống thấp hơn so với nhiên liệu truyền thống, nhưng nhìn về tương lai, khi nguồn nhiên liệu truyền thống cạn kiệt, nlsh có khả năng là ứng cử viên thay thế.
Theo các chuyên gia, NLSH được sản xuất từ nông sản có thể gây hại nhiều, lợi ít trong nỗ lực chống lại sự thay đổi khí hậu. Tuy nhiên, không ai muốn loại bỏ hoàn toàn nlsh, bởi chúng có thể đóng vai trò ngày càng lớn trong việc giúp nhiều khu vực độc lập về năng lượng. Người ta đã tính kỹ, nếu sử dụng nguồn nlsh cũng phải mất hơn 3/4 thế kỷ mới "tiết kiệm" được một lượng khí thải co2 tương đương với lượng co2 thoát ra do tình trạng phá rừng để trồng các loại cây phục vụ sản xuất nhiên liệu này.
Nhiều nhà khoa học cho rằng, nlsh đang là "kẻ thù giấu mặt" của khí hậu trái đất? Chính xác hơn là quá trình tạo ra NLSH góp phần đẩy nhanh quá trình biến đổi khí hậu trái đất (theo ước tính, khoảng 1/3 đến 2/3 diện tích rừng trên thế giới gần đây bị chặt phá có thể là do nhu cầu về nguyên liệu sản xuất nlsh ngày càng tăng).
Đồng thời, cảnh báo về an ninh lương thực sẽ gặp nhiều trở ngại và sẽ gây ra nhiều tác động đến xã hội loài người (dùng nhiều ngô để sản xuất ethanol sẽ đẩy giá các mặt hàng thực phẩm thiết yếu như sữa, trứng, thịt và pho mát tăng cao và nhu cầu về lương thực cũng đóng vai trò quan trọng). nlsh có thể là nguyên nhân gây ảnh hưởng đến giá lương thực và tổng năng lượng sản xuất ra chúng.
Mỹ đang có tham vọng sử dụng 139 triệu tấn ngô (gấp đôi lượng ngô trong niên vụ 2008) để sản xuất ethanol. động thái này sẽ đẩy giá lương thực lên cao trong bối cảnh thế giới đang thiếu lương thực, nhất là ngô để sản xuất thức ăn cho gia súc.
Một lo ngại nữa, những người nông dân trồng cọ lấy dầu ở các nước như Malaysia hay Indonesia sẽ là những người chịu ảnh hưởng nhiều nhất, nếu nlsh không được sử dụng? giấc mơ sản xuất đại trà nlsh của các quốc gia đông Nam á hiện đang bị "xếp xó", sau khi giá dầu thế giới liên tục tụt dốc không phanh. Quá trình dầu sụt giá cũng khiến giá dầu cọ giảm mạnh từ mức 1.245 usd/tấn trong năm 2008, xuống chỉ còn 405 usd/tấn hồi tháng 12/2008. Chính phủ Malaysia đang xem xét lại việc đã cấp phép hoạt động cho 91 nhà máy sản xuất nLsh tại thời điểm "hoàng kim", khi tình hình sản xuất hiện nay rất ảm đạm và gần như đình trệ.
Thế giới khai thác và sử dụng NLSH
Hiện có khoảng 50 nước trên thế giới khai thác và sử dụng nlsh ở các mức độ khác nhau. đó là những nhiên liệu được sản xuất từ dầu thực vật sạch, ethanol (chiết xuất từ ngô, mía đường, sắn), diesel sinh học...
Theo thống kê, từ năm 2000 đến 2007, sản lượng ethanol trên toàn cầu tăng gấp 4 lần và diesel sinh học tăng 10 lần. Năm 2006, toàn thế giới đã sản xuất khoảng 50 tỷ lít ethanol (75% dùng làm nhiên liệu) so với năm 2003 là 38 tỷ lít, dự kiến năm 2012 là khoảng 80 tỷ lít. năm 2005, sản xuất 4 triệu tấn diesel sinh học và năm 2010 sẽ tăng lên khoảng 20 triệu tấn diesel sinh học (B100).
Brazil cũng là nước đầu tiên sử dụng ethanol làm nhiên liệu ở quy mô công nghiệp từ năm 1970. Tất cả các loại xăng của nước này đều pha khoảng 25% ethanol (E25), mỗi năm tiết kiệm được trên 2 tỷ usd do không phải nhập dầu mỏ. Hiện tại, ở nước này có khoảng 3 triệu ôtô sử dụng hoàn toàn ethanol và trên 17 triệu ôtô sử dụng E25. Brazil có nền kinh tế lớn nhất Nam Mỹ, có thể sản xuất đủ lượng ethanol để thay thế 10% nhu cầu xăng dầu thế giới trong 20 năm tới (sản xuất chủ yếu từ mía đường của nước này). Lượng ethanol của Brazil xuất khẩu sẽ tăng lên 200 tỷ lít trong 20 năm tới, so với mức 3 tỷ lít hiện nay. Nước Mỹ kỳ vọng đến năm 2017, mỗi năm sản xuất 132 tỷ lít NLSH, nhằm giảm 20% lượng xăng dầu tiêu thụ. hiện nay, tại Mỹ có 116 nhà máy sản xuất ethanol, 79 nhà máy đang xây dựng, 11 nhà máy được mở rộng và 200 nhà máy sẽ đi vào hoạt động khi vụ thu hoạch ngô bắt đầu vào tháng 9/2008. Còn liên minh châu âu (eu) đang khuyến khích việc sử dụng nlsh và hướng tới mục tiêu nlsh chiếm 5,75% trong tổng lượng xăng dầu bán ra vào năm 2010. Tại anh, chính phủ đã yêu cầu các công ty dầu khí Shell và bp đến năm 2010 phải có khối lượng nlsh chiếm 5% khối lượng nhiên liệu mà 2 công ty này bán ra. Tại khu vực châu á, Malaysia và Indonesia, sản xuất nlsh từ các loại cây ngô, mía, đậu tương, hạt có dầu, cây cọ, vỏ bào và cả phân động vật. Nhật Bản tiêu thụ khối lượng xăng dầu lớn thứ 3 thế giới sau Mỹ và Trung Quốc, có thể trở thành quốc gia đi đầu trong việc nhập khẩu nlsh. Indonesia đã có 5,4 triệu ha trồng cọ, đến năm 2010 sẽ mở rộng thêm 3 triệu ha nữa. Giá các loại NLSH trong năm qua tăng tới 47% so với giá dầu thô tăng dao động ở mức 2,4%.
Việt Nam nên phát triển NLSH như thế nào?
Ngày 25/4/2009, Công ty Cổ phần NLSH và dầu khí miền Trung tổ chức lễ khởi công xây dựng nhà máy NLSH sản xuất bio - ethanol Dung Quất (Quảng Ngãi). Nhà máy được xây dựng trên diện tích 24ha, có tổng vốn đầu tư gần 1.500 tỉ đồng. Dự kiến đến tháng 3-2011, nhà máy sẽ hoàn thành, đưa vào hoạt động với công suất 100 triệu lít cồn nhiên liệu mỗi năm, đáp ứng 25% nhu cầu pha trộn xăng sinh học của VIệt Nam.
Tiềm năng dầu khí của nước ta không phải là lớn, từ chỗ xuất khẩu năng lượng (dầu, than), trong vòng 15 năm tới sẽ phải nhập năng lượng (dự báo tỷ lệ nhập khẩu khoảng 11-20% vào năm 2020, tăng lên 50-58% vào năm 2050). Xăng dầu dùng cho giao thông vận tải thường chiếm đến 30% nhu cầu của cả nước (hiện tại phải nhập hoàn toàn).
Khó khăn lớn nhất hiện nay đối với ngành công nghiệp nlsh là công nghệ. Một số chuyên gia cho rằng, phải mất 10-15 năm nữa mới có công nghệ tối ưu sản xuất nlsh. Trong hơn một thập kỷ qua, giới khoa học Việt Nam và các ngành cũng đã quan tâm tới việc nghiên cứu NLSH.
Hiện nay, chúng ta đang triển khai "đề án phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn đến 2025”, với mục tiêu sản xuất xăng E10 (loại xăng pha cồn với hàm lượng cồn tối đa là 10%, đáp ứng hoàn toàn mọi hoạt động bình thường của ôtô, xe máy) và dầu sinh học, nhằm thay thế một phần nhiên liệu truyền thống.
Theo đề án, trong giai đoạn 2006- 2010, Việt Nam sẽ tiếp cận công nghệ sản xuất nlsh, xây dựng mô hình thí điểm phân phối NLSH tại một số tỉnh, thành phố, quy hoạch vùng trồng cây nhiên liệu cho năng suất cao, phục vụ sản xuất nlsh, đào tạo đội ngũ chuyên sâu về kĩ thuật, đáp ứng được trình độ trong quá trình phát triển nlsh. Giai đoạn 2011 - 2015, sẽ phát triển mạnh sản xuất và sử dụng NLSH thay thế một phần nhiên liệu truyền thống, mở rộng quy mô sản xuất và mạng lưới phân phối phục vụ giao thông và các sản xuất công nghiệp khác, đảm bảo cung cấp đủ và đa dạng hoá nguồn nguyên liệu cho quá trình chuyển hoá sinh khối thành nlsh.
Một số kiến nghị
Đề án là thế. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thói quen luôn luôn đặt ra nhiều tham vọng hay mơ ước quá lớn so với thực tế, so với khả năng (vì nhiều người “đẻ” ra đề án sắp hết tuổi làm việc hay hết nhiệm kỳ), nên thiển nghĩ, có lẽ đến hết năm 2015 chắc vẫn còn giai đoạn “làm thí điểm rút kinh nghiệm” cho mục tiêu đề ra “sản xuất và sử dụng nlsh thay thế một phần nhiên liệu truyền thống”. Có chăng, khi đó có tiền là nhập khẩu nlsh dùng trong nước. Nếu muốn nlsh trở thành ngành công nghiệp như đề án thì còn nhiều vấn đề phức tạp rất khó giải quyết trong khoảng thời gian 6-7 năm.
Theo các nhà quản lý của Việt Nam, để phát triển công nghiệp nlsh thì vấn đề kỹ thuật không có gì đáng bàn, nhưng cần nhất là những chủ trương, chính sách và các biện pháp mạnh mẽ của chính phủ. đây mới là vấn đề then chốt. đến nay, những chủ trương, chính sách và các biện pháp mạnh mẽ của chính phủ chắc còn đang “phôi thai” ở đâu đó, bởi đến nay, vẫn còn gặp những cụm từ “Bộ khoa học và Công nghệ cần sớm xây dựng "Chương trình khoa học và công nghệ quốc gia về nlsh" để trình Chính phủ phê duyệt”.
Vấn đề về "đề án phát triển nlsh và lộ trình thực hiện” nên cân nhắc thật kỹ một khi tiền ngân sách phải chi.
Đất nước ta cái gì cũng cần, cái gì cũng thiếu, cái gì cũng muốn và cái gì “thiên hạ” họ làm được là có người cũng muốn bắt chước và tự nhận làm được, có khi còn hơn nữa kia, nhưng khả năng tài chính và nhân lực có chất lượng trí tuệ thì có hạn. Rất mong những người có trách nhiệm cân nhắc thật kỹ một khi dùng tiền ngân sách để “nghiên cứu” những vấn đề mà không biết chắc là có thành công hay không.
Cho nên, hãy để cơ chế thị trường điều tiết về vấn đề NLSH.