Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) quy định, người lao động được hưởng chế độ ốm đau khi phải nghỉ việc để chăm con dưới 7 tuổi ốm đau và có xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh. Thời gian hưởng chế độ cho con ốm đau trong 1 năm cho mỗi con được tính theo số ngày chăm sóc con tối đa là 20 ngày nếu con dưới 3 tuổi, tối đa 15 ngày nếu con từ đủ 3 tuổi đến 7 tuổi.
Như vậy, theo dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi), cha mẹ chỉ được nghỉ việc hưởng chế độ để chăm sóc con ốm đau nếu con dưới 7 tuổi.
Về nội dung này, đại biểu Tô Ái Vang - Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Sóc Trăng kiến nghị, quy định thêm thời gian nghỉ chăm sóc con ốm đau với những trường hợp con dưới 16 tuổi.
Theo Luật Trẻ em, trẻ em là người dưới 16 tuổi. Việc quy định cha mẹ chỉ được nghỉ việc hưởng chế độ khi chăm sóc con dưới 7 tuổi ốm đau là chưa hợp lý.
Trên thực tế, nhiều trường hợp con ốm đau trên 7 tuổi, cha mẹ vẫn phải dành nhiều thời gian chăm sóc. Thậm chí có những trường hợp trẻ mắc bệnh nan y mãn tính hoặc nằm viện, cha mẹ phải nghỉ việc nhiều ngày để chăm sóc con.
Theo Luật Bảo hiểm xã hội 2014 còn hiệu lực, quyền lợi hưởng chế độ nghỉ chăm con ốm được quy định như sau:
Thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau trong một năm cho mỗi con được tính theo số ngày chăm sóc con. Tối đa là 20 ngày làm việc nếu con dưới 3 tuổi và tối đa là 15 ngày làm việc nếu con từ đủ 3 tuổi đến dưới 7 tuổi.
Mức hưởng chế độ khi con ốm bằng 75% mức lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc.
Trường hợp người lao động mới bắt đầu làm việc hoặc người lao động trước đó đã có thời gian đóng bảo hiểm xã hội, sau đó bị gián đoạn thời gian làm việc mà phải nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau ngay trong tháng đầu tiên trở lại làm việc thì mức hưởng bằng 75% mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng đó.
Mức hưởng trợ cấp ốm đau 1 ngày được tính bằng mức trợ cấp ốm đau theo tháng chia cho 24 ngày.
Để được nhận chế độ khi con ốm, người lao động cần chuẩn bị hồ sơ theo quy định và nộp cho người sử dụng lao động trong vòng 45 ngày kể từ ngày trở lại làm việc. Người sử dụng lao động sẽ lập danh sách và gửi cho cơ quan bảo hiểm xã hội để giải quyết.