Bối cảnh chuyển dịch năng lượng mạnh mẽ và nhu cầu năng lượng ngày càng gia tăng đang đang mở ra không gian phát triển rộng lớn cho các ngành công nghiệp năng lượng của Việt Nam. Đi cùng với đó, nhu cầu về thiết bị, vật liệu, linh kiện và giải pháp công nghệ phục vụ các dự án năng lượng cũng tăng mạnh.
Đây chính là cơ hội để ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị, từng bước làm chủ công nghệ, tăng tỷ lệ nội địa hóa, và khẳng định vai trò trong quá trình xây dựng nền công nghiệp năng lượng hiện đại, bền vững.
Khung pháp lý và định hướng rõ ràng
Chia sẻ tại Tọa đàm “Mở hướng đi mới cho công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng” do Tạp chí Công Thương thực hiện, ông Chu Việt Cường - Giám đốc Trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) cho biết, những năm vừa qua, Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã ban hành rất nhiều các chính sách nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là lĩnh vực năng lượng. Có thể kể đến như:
Nghị quyết số 23-NQ/TW năm 2018 của Bộ Chính trị về định hướng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045 - trong đó nhấn mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ là giải pháp then chốt để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia;
Quyết định số 68/QĐ-TTg năm 2017 và Quyết định số 493/QĐ-TTg năm 2022 phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ và Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2035;
Nghị định số 205/2025/NĐ-CP ngày 14/7/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ - trong đó có đưa ra những ưu đãi mới cho các lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ thuộc ngành năng lượng, đặc biệt là ưu đãi cho các sản phẩm ngành điện như biến áp, thiết bị điện hay các sản phẩm liên quan đến cơ khí.
Tại Nghị quyết 55-NQ/TW về Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2050 cũng khẳng định yêu cầu phát triển chuỗi cung ứng, sản xuất thiết bị năng lượng trong nước, tiến tới tự chủ hoàn toàn trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, điện gió, điện mặt trời, thiết bị lưu trữ và truyền tải điện.
“Những chính sách này đã tạo khung pháp lý và định hướng rất rõ ràng, giúp các địa phương và doanh nghiệp có thể nhận được những chính sách ưu đãi, có cơ sở đầu tư, đổi mới về công nghệ, phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng như phát triển các kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại để từng bước giúp các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam có thể hội nhập vào chuỗi cung ứng toàn cầu”, ông Chu Việt Cường chia sẻ.
Chính sách đóng vai trò “bà đỡ”
Khẳng định vai trò quan trọng của chính sách đối với khả năng tham gia của doanh nghiệp vào chuỗi cung ứng năng lượng, TS. Vũ Văn Khoa - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí cho biết, tỷ lệ nội địa hóa các dự án, thiết bị năng lượng đã chuyển biến tích cực từ khi các chính sách đặc thù được ban hành.
Trong lĩnh vực thủy điện, thủy điện tích năng, từ khi Chính phủ có Nghị định 797 năm 2003 và Nghị định 400 năm 2004 (cơ chế 797/400), trong nước đã làm chủ từ thiết kế, chế tạo, tổ hợp và vận hành, bảo dương, chỉ còn một số thiết bị chính như tuabin, kích từ, máy phát điện, hệ thống bơm công suất lớn (đối với thủy điện tích năng) phải nhập từ nước ngoài.
Trong lĩnh vực nhiệt điện than, từ khi có Quyết định 1791 của Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế về nội địa hóa nhà máy nhiệt điện, trong nước đã làm được các hệ thống BOP (hệ thống phụ trợ cho nhà máy điện) như hệ thống lọc bụi tĩnh điện, hệ thống cung cấp than, hệ thống thải xỉ, hệ thống cung cấp nước tuần hoàn, hệ thống ống khói… và làm được ở phần thiết kế cơ sở ban đầu (basic design). Còn lại tuabin hơi, máy phát, lò hơi và hệ thống điều khiển vẫn phải nhập từ nước ngoài.
Trong lĩnh vực điện mặt trời (trên bờ và trên mặt nước), chỉ còn hệ thống inverter phải nhập khẩu, còn lại từ pin, khung đỡ/phao, neo, cáp điện đã tự chủ sản xuất trong nước.
Trong lĩnh vực điện khí, đến thời điểm này, tỷ lệ nội địa hóa của một số dự án đã đạt trên 40%, trong nước làm được các phần làm kết cấu, lắp đặt, xây dựng,… còn phần tuabin khí, tuabin hơi, hệ thống thu hồi nhiệt, hệ thống hóa khí của LNG phải nhập của nước ngoài, đặc biệt cũng chưa thiết kế được basic của hệ thống.
Trong lĩnh vực điện gió, đặc biệt là điện gió ngoài khơi, trong nước chưa thiết kế được basic, mới chỉ sản xuất được cột điện (làm chủ được công nghệ nhưng vì giá cạnh tranh nên chỉ có một số đơn vị FDI làm được), trụ dựng cột ở phía trên, máy biến áp tích hợp ngoài khơi. Còn tuabin gió, hệ thống cáp điện trong nước chưa làm được.
Theo TS. Vũ Văn Khoa, các chính sách này đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp kịp thời nắm bắt cơ hội, khai thác thị trường công nghiệp năng lượng tiềm năng. Doanh nghiệp trong nước làm chủ công nghệ, tự chủ việc sản xuất thiết bị đã góp phần giảm chi phí đầu tư trên mỗi MW, góp phần tăng quy mô phát triển ngành năng lượng.
Cần chính sách dài hạn và ổn định
Ông Lê Văn An - Phó Chủ tịch Hiệp Hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam, Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty Cơ điện Xây dựng - CTCP đánh giá, thực tế, các doanh nghiệp đã đầu tư rất nhiều cho khâu thiết kế, đầu tư trang thiết bị máy móc hiện đại, đào tạo nhân lực… nên đã làm chủ và có thể nói là làm tốt toàn bộ công tác hỗ trợ cho các công trình điện, nhiệt điện, khí điện, cho tất cả các công trình năng lượng lớn, nhỏ trong cả nước và một phần xuất khẩu. Nếu được Nhà nước tin tưởng và mạnh dạn giao việc, doanh nghiệp hoàn toàn có thể làm chủ việc chế tạo các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho các nhà máy quy mô từ nhỏ đến lớn trên cả nước.
Vì vậy, điều doanh nghiệp cần là chính sách ổn định và dài hạn.
“Việc này rất quan trọng, bởi vì nếu chính sách không ổn định thì vừa tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp đầu tư trang thiết bị, máy móc, nhân lực, làm xong được một đoạn ngắn thì chính sách thay đổi, thế là không còn tích lũy để phát triển lâu dài”, ông An phân tích.
Cùng với đó, ông An cũng nhấn mạnh cần ưu tiên vốn tín dụng, ưu đãi đất đai và thuế cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng, cùng với hỗ trợ xúc tiến thương mại và chuyển giao công nghệ để rút ngắn khoảng cách với các nhà cung cấp nước ngoài.
Chia sẻ với quan điểm này, TS. Vũ Văn Khoa cho rằng, có 4 vấn đề Chính phủ và các Bộ ngành cần giải quyết để hỗ trợ cho doanh nghiệp.
Thứ nhất, cần ban hành nhanh các tiêu chuẩn, quy chuẩn về thiết bị năng lượng và linh kiện cơ khí trong nước để có thể chứng minh các sản phẩm này đáp ứng đủ tiêu chuẩn cần thiết đưa vào sử dụng trong các dự án. Đồng thời, cần quy định về tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc trong các dự án để tạo dung lượng thị trường, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này. Việc cải cách thủ tục hành chính, rút gọn các trình tự phê duyệt cũng cần được đẩy mạnh.
Thứ hai, cần tăng quy mô hỗ trợ tài chính thông qua các quỹ đổi mới sáng tạo, hay mở rộng quỹ đất, phát triển các trung tâm R&D ở các viện nghiên cứu, các cơ quan đủ điều kiện để hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện công tác nghiên cứu và phát triển.
Thứ ba, cần mở rộng liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp FDI để chuyển giao công nghệ.
Thứ tư, quy hoạch và xây dựng các cụm công nghiệp chế tạo cho ngành năng lượng ở gần các vùng có thị trường, tức các địa phương có tiềm năng phát triển năng lượng lớn, qua đó tạo ra lợi thế cạnh tranh về giá và logistics cho các doanh nghiệp trong chuỗi.
