Chính sách thuế và ưu đãi đầu tư hiện nay trong đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế ở hầu hết các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Để thu hút doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), có nhiều loại công cụ chính sách được sử dụng, trong đó có chính sách ưu đãi tài chính.
Ưu đãi đầu tư FDI
Việc ban hành Quyết định 29/2021/QĐ-TTg hướng đến khuyến khích các nhà đầu tư FDI vốn lớn, công nghệ cao gắn bó lâu dài với Việt Nam, cũng như thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, tăng tính lan tỏa của đầu tư FDI.

 

Trong 35 năm thực hiến chính sách mở cửa thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Việt Nam đã liên tục hoàn thiện thể chế, chính sách ưu đãi về tài chính để thu hút và quản lý tốt hơn nguồn lực đầu tư nước ngoài. Tựu chung lại, các ưu đãi về tài chính tập trung vào 3 lĩnh vực: (i) Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, (ii) Ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu và (iii) Chính sách ưu đãi về tài chính đất đai.

Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp

Từ năm 1987, khi Việt Nam ban hành Luật đầu tư nước ngoài, Chính phủ cũng bắt đầu công cuộc cải cách thuế giai đoạn 1 nhằm tạo môi trường cho mọi thành phần kinh tế phát triển, thu hút đầu tư nước ngoài. Giai đoạn này, đối với khu vực đầu tư nước ngoài, thuế suất phổ thông của thuế lợi tức là 25%. Ngoài ra, còn có thuế suất ưu đãi thấp hơn là 10%, 15% hoặc 20% áp dụng đối với các dự án khuyến khích đầu tư. Doanh nghiệp hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài được miễn thuế lợi tức tối đa 4 năm kể từ khi bắt đầu kinh doanh, giảm 50% số thuế phải nộp tối đa trong 4 năm tiếp theo tuỳ theo lĩnh vực ngành nghề khuyến khích đầu tư hoặc địa bàn hoạt động. Trường hợp doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận thu được để tái đầu tư thì được hoàn lại số thuế lợi tức đã nộp cho phần lợi tức sử dụng để tái đầu tư. Như vậy, với mức thuế suất thấp hơn và thời gian miễn giảm thuế dài hơn, quan điểm chính sách thuế trong giai đoạn này thể hiện sự ưu đãi đối với nhà đầu tư nước ngoài hơn nhà đầu tư trong nước (thuế suất thuế thu nhập đối với doanh nghiệp trong nước theo theo quy định của năm 1997 vẫn là 32%).

Từ năm 1995-2000, Việt Nam thực hiện cải cách thuế giai đoạn 2 trong bối cảnh Việt Nam đã bắt đầu tham gia vào các Hiệp định thương mại quốc tế và song phương. Năm 1999, Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp đã thay thế cho Luật thuế lợi tức và bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp cho phép áp dụng nhiều ưu đãi để khuyến khích đầu tư, như các cơ sở sản xuất mới thành lập được miễn thuế 2 năm đầu, được giảm 50% hai năm tiếp theo; Nếu đầu tư vào những lĩnh vực, ngành nghề, vùng kinh tế được ưu đãi đầu tư sẽ hưởng mức thuế suất thấp hơn các dự án khác. Thời gian miễn giảm cao nhất là 13 năm (4 năm miễn, 9 năm giảm). Ngoài ra, còn khuyến khích miễn, giảm thuế đối với các trường hợp đầu tư dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao năng lực sản xuất, di chuyển cơ sở kinh doanh, khuyến khích đối với doanh nghiệp xuất khẩu.

Bên cạnh đó, các quy định như áp dụng thuế suất thuế Giá trị gia tăng (GTGT) 0% đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu và các quy định về hoàn thuế hay các quy định ưu đãi về thuế suất, miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các cơ sở kinh doanh có tỷ lệ giá trị sản phẩm xuất khẩu cao trong doanh số đã giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện giảm giá vốn hàng xuất khẩu, có thêm điều kiện thuận lợi để cạnh tranh về giá trên thị trường quốc tế.

Giai đoạn 2001 - 2010, nền kinh tế đã có những bước phát triển khá sau nhiều năm thu hút vốn đầu tư nước ngoài và áp dụng luật khuyến khích đầu tư trong nước. Đồng thời, việc thực hiện các cam kết quốc tế đa phương và song phương dẫn đến sự cắt giảm đáng kể nguồn thu từ thuế nhập khẩu, Việt nam đã tiến hành cải cách thuế giai đoạn 3 với trọng tâm của cải cách là hướng vào thực hiện ba mục tiêu: đơn giản, công bằng, hiệu quả. Để khuyến khích đầu tư trên cơ sở vẫn đảm bảo nguồn thu, Nhà nước đã giảm gánh nặng thuế qua việc giảm thuế suất, đơn giản hóa hệ thống thuế, mở rộng đối tượng chịu thuế.

Chính sách thuế đã thể hiện rõ sự phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước trong từng thời kỳ, cụ thể là khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vốn vào những vùng có điều kiện tự nhiên khó khăn nhằm tạo nên sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong cả nước, tiến tới hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, tạo thu nhập bền vững và ổn định cho nền kinh tế. Thời kỳ này, chính sách thuế đã góp phần hướng tới xóa bỏ sự phân biệt, đối xử giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc quy định nghĩa vụ thuế và ưu đãi thuế áp dụng thống nhất cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vừa tạo ra sự bình đẳng về nghĩa vụ thuế cho tất cả các nhà đầu tư, vừa tạo dựng được môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và là một bước tiến quan trọng chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.

Từ năm 2011 đến 2020, Chính phủ thực hiện cải cách thuế giai đoạn 4. Trong giai đoạn này, bối cảnh kinh tế của đất nước có nhiều thay đổi. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, cộng với sự tăng trưởng dựa trên khai thác tài nguyên thiên nhiên, vốn và lao động chất lượng thấp, giá rẻ đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chậm lại đòi hỏi Việt Nam phải thay đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, đảm bảo tính bền vững. Khu vực nông nghiệp, nông thôn trở thành một trong những khu vực được ưu tiên phát triển trong thời gian tới. Thêm vào đó, hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh theo hướng nâng cao chất lượng, phát triển theo chiều sâu. Luật thuế mới được ban hành và Luật sửa đổi, bổ sung các Luật thuế trong thời gian này cũng được xây dựng theo hướng phục vụ các chiến lược này.

Công tác quản lý thuế đã được hiện đại hóa theo thông lệ của quốc tế. Trong giai đoạn này, tổng thời gian nộp thuế giảm từ 650 giờ xuống còn 237 giờ, giảm được 413 giờ, tương đương giảm 63,5% thời gian nộp thuế, góp phần tăng mức độ thuận lợi về thuế của Việt Nam từ thứ hạng 147 lên 109, tăng 38 bậc. Trên cơ sở đó, Việt Nam được đánh giá là một trong bốn nước của khu vực Đông Nam Á có sự cải thiện vượt bậc về mức độ thuận lợi về thuế.

Để tiếp tục chủ động, tích cực thực hiện các biện pháp cải cách, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu được nhận định sẽ chuyển sang chu kỳ tăng trưởng mới nhưng đối mặt nhiều thách thức phức tạp. Một trong những mục tiêu trọng tâm của Chiến lược là thực hiện công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, chuyên nghiệp dựa trên ba nền tảng cơ bản là thể chế quản lý thuế đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập. Đưa hệ thống thuế Việt Nam trở thành đối tác tin cậy của mọi tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện pháp luật thuế và duy trì vị thế của Việt Nam trong nhóm những nước đứng hàng đầu xếp hạng thuận lợi về thuế tại khu vực Đông Nam Á.

Chiến lược này có ý nghĩa và vai trò quan trọng nhằm kịp thời thể chế hoá quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách hệ thống thuế trong các văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và các Nghị quyết của Quốc hội về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tài chính quốc gia giai đoạn 2021-2025 cũng như định hướng những mục tiêu, nhiệm vụ của Chiến lược Tài chính trong thời gian tới.

Như vậy, bên cạnh việc giảm mức thuế suất phổ thông qua các lần sửa Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (giai đoạn 2001-2008 là 28%, giai đoạn 2009-2013 là 25%, giai đoạn 2014- 2015 là 22% và từ 1/1/2016 là 20%) thì việc quy định ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức cao đối với một số lĩnh vực mũi nhọn cần khuyến khích đầu tư đã góp phần thu hút đầu tư, khuyến khích kinh doanh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tăng tích lũy, trên cơ sở đó có thêm nguồn lực để tăng đầu tư vào nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng.

Ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu

Để thực hiện chính sách khuyến khích, thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991 có quy định một số trường hợp miễn thuế như: hàng tạm nhập tái xuất để dự hội chợ triển lãm, hàng nhập khẩu chuyên dùng phục vụ khoa học, giáo dục, đào tạo, hàng là tài sản di chuyển ...

Quan trọng nhất là từ năm 1991, chính sách thuế nhập khẩu đã cho phép miễn thuế nhập khẩu đối với các hàng hóa tạo tài sản cố định của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, nguyên liệu nhập khẩu để gia công cho phía nước ngoài. Giai đoạn 1995-2000, Chính phủ tiếp tục cải cách thuế xuất nhập khẩu theo nguyên tắc ưu tiên khuyến khích nhập khẩu máy móc thiết bị, vật tư, nguyên liệu phục vụ cho sản xuất (hầu hết thuế nhập khẩu là 0%) hơn là hàng tieu dùng; ưu tiên khuyến khích xuất khẩu hàng đã qua chế biến (thuế suất 0%) hơn là đối với hàng hoá ở dạng nguyên liệu thô. Tháng 7/1995, Việt Nam chính thức tham gia vào Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) và ký kết Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT). Đây là hiệp định thương mại tự do đầu tiên mà Việt Nam tham gia, đánh dấu bước tiến quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Từ năm 2001 đến nay, đi đôi với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam tiếp tục hoàn thiện chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhằm đáp ứng các cam kết quốc tế. Tháng 01/2007, Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chính thức tham gia vào hệ thống thương mại toàn cầu. Việc tham gia vào WTO là nền tảng quan trọng để Việt Nam tiếp tục mở rộng quan hệ thương mại quốc tế và tham gia vào các hiệp định thương mại tự do đa phương và song phương khác. Tính đến tháng 12/2021, Việt Nam đã ký kết 15 Hiệp định thương mại tự do (FTA) với nhiều cam kết về cắt giảm thuế quan. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng được tiếp tục cập nhật, sửa đổi, qua các năm nhằm đáp ứng các yêu cầu cam kết hội nhập, đồng thời tiếp tục hoàn thiện các chính sách ưu đãi xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.

Chính sách ưu đãi về tài chính đất đai

Giai đoạn trước năm 2005, sự ra đời của Luật Đất đai năm 1993 đã đánh dấu bước phát triển quan trọng trong chính sách tài chính đất đai bằng hàng loạt các quy định mang tính tiến bộ, từng bước phù hợp với cơ chế thị trường. Các nghị định, văn bản hướng dẫn thi hành Luật đã từng bước phát huy trong cuộc sống, đặc biệt là các chính sách tài chính đất đai như: Chính sách thu tiền sử dụng đất, Chính sách thu tiền thuê đất, thuê mặt nước và các văn bản sửa đổi, bổ sung của Chính phủ, các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính về các chính sách trên. Các chính sách tài chính liên quan đến tài chính đất đai được ban hành trong từng bối cảnh, giai đoạn cụ thể đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong việc khai thác nguồn lực tài chính đất đại phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, đã có các quy định về ưu đãi miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuê mặt nước góp phần cải thiện môi trường đầu tư, giải quyết hợp lý về lợi ích giữa Nhà nước với người sử dụng đất.

Giai đoạn từ năm 2005 đến nay, để hỗ trợ doanh nghiệp, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, giải pháp hỗ trợ, cụ thể: (i) Giảm 50% tiền thuê đất trong giai đoạn từ 2011-2014; (ii) Điều chỉnh giảm mức tỷ lệ (%) tính đơn giá thuê đất chung từ 1,5% (quy định tại Nghị định số 121/2010/ NĐ-CP) xuống còn 1% (quy định tại Nghị định số 46/2014/NĐ-CP) và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể mức tỷ lệ (%) trong khung từ 0,5% đến 3% theo từng khu vực, tuyến đường tương ứng với từng mục đích sử dụng đất để áp dụng thu tiền thuê đất tại địa phương; (iii) Quy định áp dụng hệ số điều chỉnh giá đất trong xác định giá đất tính thu tiền thuê đất đối với thửa đất hoặc khu đất mà giá trị của diện tích tính thu tiền thuê đất tính theo giá đất trong Bảng giá đất dưới 30 tỷ đồng đối với các thành phố trực thuộc Trung ương; dưới 10 tỷ đồng đối với các tỉnh miền núi, vùng cao; dưới 20 tỷ đồng đối với tỉnh còn lại.

Thực hiện Luật Đất đai năm 2003, sau đó là Luật Đất đai năm 2013, Chính phủ đã ban hành các Nghị định quy định về thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước và ban hành theo thẩm quyền các Thông tư hướng dẫn với những quy định nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, cải thiện môi trường kinh doanh: Miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước đối với các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật đầu tư; Ưu đãi trong lĩnh vực xã hội hóa; Ưu đãi khi đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; Mở rộng phạm vi áp dụng phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất và đối tượng áp dụng để xác định nghĩa vụ tài chính về tiền thuê đất cho doanh nghiệp đã cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xác định, thông báo nộp tiền thuê đất vào ngân sách nhà nước và hỗ trợ một phần cho doanh nghiệp...

Đồng thời, để thu hút đầu tư, tăng cường quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính đất đai tại các khu kinh tế, khu công nghệ cao; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017 quy định thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước trong Khu kinh tế, Khu công nghệ cao với những ưu đãi cao hơn mức ưu đãi của các dự án đầu tư thường.

Ưu đãi đầu tư đặc biệt

Ngày 06/10/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 29/2021/QĐ-TTg quy định về ưu đãi đầu tư đặc biệt nhằm thu hút đầu tư FDI có chọn lọc. Theo Quyết định này, có 3 mức ưu đãi đầu tư đặc biệt về thuế thu nhập doanh nghiệp.

Trong đó, nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư thuộc ngành, nghề đặc biệt ưu đãi đầu tư có quy mô vốn trên 30.000 tỉ đồng được hưởng ưu đãi đặc biệt, với mức thuế thu nhập doanh nghiệp 9% trong 30 năm.

Nhà đầu tư sẽ được hưởng mức thuế suất ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp 7% trong 33 năm nếu thuộc một trong các trường hợp sau: dự án thành lập mới, mở rộng các trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) có vốn đầu tư trên 3.000 tỉ đồng trở lên, thực hiện giải ngân tối thiểu 1.000 tỉ đồng trong 3 năm, kể từ ngày được cấp chứng nhận đầu tư; dự án thuộc ngành, nghề đặc biệt ưu đãi đầu tư đáp ứng yêu cầu về quy mô vốn đầu tư, có công nghệ cao mức 1, các doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi ở mức 1, đáp ứng chuyển giao công nghệ mức 1.

Nhà đầu tư được hưởng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi 5% trong 37 năm. Ưu đãi này áp dụng với dự án trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia được thành lập theo quyết định của Thủ tướng. Các dự án đầu tư thuộc ngành, nghề ưu đãi đầu tư đặc biệt, đáp ứng yêu cầu về quy mô vốn đầu tư, là dự án công nghệ cao mức 2, có tỉ lệ doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi mức 2, giá trị gia tăng tại Việt Nam chiếm trên 40% giá thành, đáp ứng tiêu chí chuyển giao công nghệ mức 2.

Bên cạnh quy định này, nhà đầu tư thuộc diện ưu đãi đầu tư đặc biệt sẽ được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp từ 5 -6 năm đầu, giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 10-13 năm tiếp theo, kể từ ngày cấp phép đầu tư.

Đối với tiền thuê đất, thuê mặt nước, nhà đầu tư thuộc diện ưu đãi đặc biệt được miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước từ 18-20 năm, giảm từ 55%-75% tiền thuê đất, thuê mặt nước trong suốt vòng đời dự án.

Cũng theo quyết định 29/2021/QĐ-TTg quy định về ưu đãi đầu tư đặc biệt, bên cạnh điều kiên về quy mô vốn đăng ký, để được hưởng ưu đãi đặc biệt về thuế, tiền thuê đất, thuê mặt nước của Chính phủ, nhà đầu tư phải đáp ứng các tiêu chí quy mô vốn đầu tư dự án, mức giải ngân, đầu tư dự án công nghệ cao, chuyển giao công nghệ, có doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi, giá trị sản xuất trong nước.

Theo quyết định này, dự án công nghệ cao, có hoạt động R&D sẽ được chia thành hai mức, mức 1 có doanh thu từ sản phẩm công nghệ cao ít nhất đạt 70% tổng doanh thu, lao động R&D đạt 1%; mức 2 doanh thu sản phẩm công nghệ cao đạt trên 80%, lao động R&D đạt 2%.

Tỉ lệ doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi mức 1 là từ 30-40%, mức 2 là trên 40% doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi và thực hiện các hợp đồng lắp ráp, cung cấp linh kiện, nguyên vật liệu, dịch vụ để sản xuất sản phẩm; khoảng 30% giá thành sản phẩm được tạo ra bởi các doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi giá trị.

Các doanh nghiệp muốn hưởng ưu đãi đầu tư đặc biệt phải đáp ứng điều kiện chuyển giao công nghệ cho 3 doanh nghiệp Việt Nam trở lên trong 5 năm kể từ thời điểm cấp phép đầu tư dự án.

Theo các đánh giá, quá trình cải cách hành chính của Việt Nam, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính thuế và hải quan đã có những tác động tích cực đến việc thu hút và giải ngân vốn FDI. Đặc biệt, việc ban hành Quyết định 29/2021/QĐ-TTg khuyến khích các nhà đầu tư FDI vốn lớn, công nghệ cao gắn bó lâu dài với Việt Nam, cũng như thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, tăng tính lan tỏa của đầu tư FDI vốn là những vấn đề trọng tâm trong việc khai thác hiệu quả các lợi ích do dòng vốn FDI đem lại.  

Kiều Oanh