Trước mặt chùa Thiên Mụ là dòng Hương Giang nước trong xanh uốn lượn, xa xa ẩn hiện dãy Trường Sơn. Sau lưng chùa có hồ nước và dãy đồi thấp che chắn, địa thế ngôi chùa cổ tự đúng là “sơn trường thủy tự” thanh tịnh mà nên thơ.
Ngôi chùa được tạo nên từ sự hòa quyện giữa giá trị lịch sử, tâm linh và giá trị văn hóa nghệ thuật độc đáo. Vẻ đẹp của chùa Thiên Mụ khiến Vua Thiệu Trị phải xếp vào diện “Thần Kinh Nhị Thập Cảnh” - Hai mươi thắng cảnh đất Thần Kinh với bài thơ “Thiên Mụ chung thanh” do đích thân vua Thiệu Trị sáng tác và được ghi vào bia đá dựng gần cổng chùa. Năm 1862, dưới thời vua Tự Đức, để cầu mong có con nối dõi, nhà vua sợ chữ “Thiên“ phạm đến Trời nên cho đổi từ “Thiên Mụ” thành “Linh Mụ” (Bà mụ linh thiêng). Mãi đến năm 1869, vua mới cho dùng lại tên Thiên Mụ như trước. Bởi vậy trong dân gian, người ta vẫn dùng cả hai tên khi muốn nhắc đến chùa này.
Truyền thuyết về Chùa Thiên Mụ
Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này.
Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê.
Cùng lúc đó, người dân trong vùng truyền tai nhau câu chuyện về một bà lão mặc áo đỏ, với khuôn mặt phúc hậu. Mỗi đêm bà đi lên đồi Hạ Khuê và nói với mọi người rằng: Tại đây sẽ có một vị chân chúa lập chùa để trấn giữ long mạch. Thấy ý tưởng của mình có sự tương thông với câu chuyện kể lại, chúa Nguyễn Hoàng ngay lập tức cho quân lính xây dựng ngôi chùa trên đồi vào năm 1601. Lúc này chùa được lấy tên gọi là “Thiên Mụ Tự” - Tức “Bà mụ nhà trời”.
Trải qua bao sóng gió lịch sử, Chùa Thiên Mụ từng được dùng làm đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới triều vua nhà Nguyễn.
Năm 1884, nhân dịp mừng lễ “bát thọ” (mừng sinh nhật thứ 80) của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: Xây thêm tháp Từ Nhân (sau đổi là tháp Phước Duyên), đình Hương Nguyện và dựng hai tấm bia ghi chép thơ văn của nhà vua.
Kiến trúc cổ kính của Chùa Thiên Mụ
Đứng nhìn từ xa, khuôn viên chùa có hình dáng như một con rùa khổng lồ cõng trên lưng ngôi chùa cổ kính đang uống nước sông Hương.
Với địa thế và dáng hình đó, Chùa Thiên Mụ được chia làm hai khu vực: khu vực phía trước tượng trưng cho đầu rùa, được sắp xếp các kiến trúc mang tính kỷ niệm như bia đá, chuông đồng… còn ở phía sau mang dáng hình thân rùa là các kiến trúc điện thờ, nhà tăng… Hai khu vực này được ngăn cách nhau bởi cánh cửa tam quan.
Một biểu tượng gắn liền với chùa không thể không nhắc đến chính là tháp Phước Duyên, tháp cao 21 mét, gồm 7 tầng, được xây dựng ở phía trước chùa vào năm 1844, mỗi tầng tháp đều có thờ tượng Phật, bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng.
Bên cạnh đó, ở mỗi tầng tháp đều có cửa sổ trang trí bằng các thanh đồng uốn dẹp giúp ánh sáng lan tỏa trong lòng tháp. Đứng trên tầng cao của tháp có thể nhìn hướng tầm mắt bao quát một khúc sông Hương và dãy Trường Sơn ẩn hiện xa xa.
Hai bên tháp còn có nhà bia và lầu chuông, trong lầu chuông có treo quả đại hồng chuông với nhiều đường nét độc đáo. Chính vì vậy đã tạo nên những nét riêng vừa hấp dẫn vừa bí ẩn cho Chùa Thiên Mụ.
Khuôn viên Chùa Thiên Mụ được chia làm hai khu vực: Khu vực trước cửa Nghi Môn gồm có các công trình kiến trúc: Bến thuyền có 24 bậc tam cấp lên xuống, cổng tam quan là bốn trụ biểu xây sát đường cái, từ cổng tam quan bước lên 15 bậc tam cấp là đình Hương Nguyện. Đình Hương Nguyện được xây dựng dưới thời vua Thiệu Trị và nằm ở ngay phía trước của tòa Phước Duyên. Trước đây, Đình Hương Nguyện là một công trình kiến trúc hoành tráng và độc đáo. Tuy nhiên, vào năm 1904 có một cơn bão đổ bộ khiến cho Đình Hương Nguyện đã bị hư hỏng. Sau này người ta đã phục dựng lại để đón du khách tham quan.
Đặc biệt, ở Đình Hương Nguyện hiện nay còn đang trưng bày một chiếc xe Austin của cố hòa thượng Thích Quảng Đức – người để lại trước khi châm lửa tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963.
Sau đình Hương Nguyện là tháp Phước Duyên xây bằng gạch vồ có chiều cao 21m, gồm 7 tầng và mỗi tầng đều có thờ tượng Phật, riêng tầng trên cùng có một pho tượng Phật bằng vàng. Hai bên đình Hương Nguyện có hai lầu bia hình tứ giác (dựng thời Thiệu Trị), lui về phía trong có hai lầu hình lục giác một lầu để bia và một lầu để chuông (dựng thời Nguyễn Phúc Chu). Đây là những công trình có tính chất lưu niệm (bia, tháp).
Khu vực phía trong cửa Nghi Môn gồm các điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan âm, nhà Trai, nhà Khách, vườn hoa, phía sau cùng là vườn thông tĩnh mịch.
Trong phạm vi Chùa Thiên Mụ đâu đâu cũng toát lên một chút thơ, một chút mộng của xứ Huế. Mỗi công trình, kiến trúc dù được xây dựng dưới triều đại nào cũng đều thể hiện sự tín ngưỡng, trang trọng và hài hòa với những công trình trước đó.
Thiên Mụ là ngôi chùa cổ nhất, kiến trúc đồ sộ nhất và cũng là ngôi chùa đẹp nhất của xứ Huế. Năm 1695, Chúa Nguyễn Phúc Chu đã mở đại giới đàn rất long trọng tại Chùa Thiên Mụ. Lịch sử huy hoàng của các Chúa Nguyễn trong quá trình khai phá, lập nghiệp ở Đàng trong có thể nói được mở đầu bằng công trình xây dựng Chùa Thiên Mụ.