Chúng ta cần có nhiều cơ chế như 797/400

Theo dự báo, tốc độ tăng trưởng về nhu cầu điện trong những năm tới gấp hơn 2 lần tốc độ tăng GDP (dự kiến 16-17% trong giai đoạn 2006- 2010), cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực khi đang ở cù

Để có điện đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế, trong những năm qua ngành Điện đã nỗ lực phấn đấu để phát triển nguồn điện bằng nhiều giải pháp, trong đó có việc lập dự án và triển khai 12 nhà máy thủy điện.

TCT Điện lực Việt Nam đã có nhiều cố gắng, trong đó có việc đưa ra được cơ chế 797/400, nhằm đảm bảo cho các dự án thủy điện được hoàn thành theo đúng tiến độ. Cơ chế 797/400 có thể hiểu một cách đơn giản, đó là 2 quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định 797/CP-CN, ngày 17/6/ 2003, về việc các dự án điện khởi công năm 2003-2004 và Quyết định số 400/CP-CN, ngày 26/3/2004, về việc thực hiện cơ chế đối với các dự án thủy điện). Có thể nói, 2 quyết định này là bước đột phá mới về cơ chế quản lý trong việc triển khai xây dựng các nhà máy thủy điện. Những cơ chế rất quản lý linh hoạt được xuất phát từ nhu cầu thực tế về đảm bảo tiến độ, chất lượng, nâng cao ý thức, trách nhiệm cá nhân và của các bộ, các cấp, các ngành và các địa phương đối với các dự án xây đựng nhà máy thủy điện.

Một trong những đổi mới trong cơ chế quản lý của 2 quyết định trên là việc Thủ tướng cho phép áp dụng hình thức tổng thầu xây lắp do các tổ hợp hình thành từ các tổng Công ty xây dựng, lắp máy, chế tạo cơ khí trong nước có năng lực và kinh nghiệm để thực hiện các dự án theo đề nghị của TCT Điện lực Việt Nam. Tổ hợp có một nhà thầu làm nhà thầu chính đứng đầu tổ hợp để đàm phán ký hợp đồng với chủ đầu tư. Do không phải đấu thầu nên giá trị hợp đồng phải thấp hơn từ 3-5% phần dự toán xây dựng được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đối với thiết bị công nghệ của các dự án, Bộ Công nghiệp chịu trách nhiệm xác định và tổ chức chỉ đạo phần chế tạo trong nước. TCT điện lực Việt Nam thực hiện đấu thầu quốc tế rộng rãi để nhập khẩu thiết bị công nghệ nước ngoài mà trong nước không chế tạo được. Hội đồng quản trị TCT Điện lực Việt Nam được phép chỉ định tư vấn trong nước có năng lực và kinh nghiệm làm tư vấn chính và đối với những vấn đề thực sự cần thiết thì thuê tư vấn nước ngoài là tư vấn phụ theo hợp đồng.

Nếu theo đúng quy chế hiện hành, thì các dự án thuỷ điện phải thông qua đấu thầu nên dẫn đến kéo dài thời gian chuẩn bị khởi công, trong khi đó, năng lực của tư vấn, các nhà thầu trong nước thì TCT Điện lực Việt Nam đã nắm rất rõ. Hơn thế nữa, do không đấu thầu, giá thành hạ đến 5% tổng dự toán và nâng cao trách nhiệm của TCT Điện lực Việt Nam vì tự chọn thầu (do đó không thể đổi lỗi cho ai khi có vấn đề xảy ra) và thêm nữa, việc đấu thầu hình thức, đấu thầu với “quân xanh”, “quân đỏ”… sẽ không thể xảy ra.

Một điểm mới trong trong Chương trình là được triển khai trước các hạng mục công trình thuộc giai đoạn chuẩn bị xây dựng như: đường vào công trường, điện, nước, thông tin liên lạc, nhà ở và nhà làm việc của Ban A, giải phóng mặt bằng, tái định cư, rà phá bom, mìn. Việc giải phóng mặt bằng chỉ cần có phương án nguyên tắc là triển khai với phương châm vừa làm vừa điều chỉnh chi tiết. Công tác giải phóng mặt bằng được giao cho cấp tỉnh thực hiện với một tổ công tác đặc biệt (gồm các ban ngành của tỉnh) do Chủ tịch UBND tỉnh làm tổ trưởng. Như vậy, đã gắn trách nhiệm cá nhân của Chủ tịch UBND tỉnh vào việc thực hiện giải phóng mặt bằng (tiền đền bù tất nhiên là do chủ đầu tư chịu trách nhiệm). Theo đánh giá chung, với cơ chế này thì mỗi dự án tiết kiệm được 2 năm do không phải trình duyệt, bổ sung và qua nhiều cấp phê duyệt. Do giải phóng mặt bằng nhanh nên không phát sinh thêm tiền đền bù, vì người dân không kịp trông thêm cây cối, xây mộ, xây nhà…

Cơ chế tài chính 797/400 cũng rất thông thoáng. Cụ thể như, trong trong trường hợp tổng dự toán của các dự án chưa được phê duyệt, chủ đầu tư được phép thanh toán 80% giá trị khối lượng đã thi công. Ngoài ra, Chính phủ còn cho phép chủ đầu tư được ứng vốn ban đầu đến 10% giá trị xây lắp của năm kế hoạch tiếp theo cho nhà thầu; đồng thời chủ đầu tư có trách nhiệm thanh toán kịp thời khối lượng hoàn thành hàng tháng được nghiệm thu trên cơ sở hồ sơ hoàn công theo quy định của chủ đầu tư…

 Đánh giá về cơ chế 797/400 có thể nêu một số nhận xét như sau:

1 - Các ưu điểm của cơ chế:

Cơ chế 797/400 góp nâng cao năng lực của các doanh nghiệp trong nước. Từ chủ đầu tư, tư vấn thiết kế đến nhà thầu đều có cơ hội, điều kiện để phát huy năng lực của mình nhờ cơ chế đặc biệt này. Thực tế, có rất nhiều nhà thầu đã đảm đương được công việc của tổng thầu, có cơ hội mua sắm thêm máy móc thi công, nâng cao năng lực thực sự của mình. Đặc biệt, khâu chuẩn bị dự án, nhiều ý kiến đánh giá với cơ chế này có thể rút ngắn được tiến độ từ 1- 1,5 năm nếu tất cả các công đoạn của dự án được triển khai một cách đồng bộ. Thực tế, các công trình đều được khởi công sớm hơn so với cơ chế thông thường. Các công việc thi công phần xây dựng cho đến nay cơ bản bám sát được tiến độ.

Với cơ chế này, khả năng một số công trình điện được đưa vào sử dụng sớm từ 1 đến 1,5 năm là hiện thực, đáp ứng nhu cầu điện giai đoạn 2005-2007.

2 - Những tồn tại của của cơ chế:

   Điểm yếu cơ bản của cơ chế này là việc thi công tiến hành không đồng bộ giữa các khâu sẽ gây ảnh hưởng đến tiến độ chung của dự án. Đặc biệt, do việc cho phép thi công trước, thiết kế duyệt sau, nên việc mua sắm thiết bị không kịp với tiến độ thi công đang xảy ra hầu hết các công trường.

Mặt khác, do phân chia làm hai giai đoạn, yêu cầu tiến độ thiết kế (TK) thường rất gấp, nên chất lượng tư vấn thiết kế (TVTK) còn thấp, việc sửa đổi TK thường xảy ra.

Sửa đổi thiết kế (TK) tại công trường là cần thiết, nhưng lực lượng giám sát TK trên công truờng mỏng, cán bộ giám sát TK không bố trí đủ người có năng lực nên thường bị kéo dài và việc sửa đổi TK nên phải thi công lại, gây lãng phí. TVTK của các nhà thầu nói chung còn yếu, không đáp ứng  đòi hỏi tiến độ, chất lượng thi công. Các nhà thầu gặp khó khăn trong việc thay đổi cũng như khả năng đáp ứng về thời gian của công tác TVTK.

Do cơ chế chỉ định thầu, nên trong việc thoả thuận đơn giá định mức (ĐGĐM) giữa chủ đầu tư (CĐT) và các nhà thầu (NT), kể cả giữa các cơ quan QLNN là rất khó khăn. Việc tham gia của các NT (chỉ định) vào việc lập định mức với các CĐT nên rất khó thoả thuận đi đến kết quả mong muốn. Điều này dẫn đến không xây dựng được tổng dự toán (TDT) các công trình và sau đó là hợp đồng tổng thầu EPC.

Cho đến nay, chưa có một hợp đồng EPC nào được kí kết giữa CĐT và NT theo cơ chế này. Cũng chỉ có 02 dự án có TDT được duyệt với sự can thiệp trực tiếp của cơ quan QLNN, trong tổng số 16 công trình đang thi công.

Một vấn đề lớn đó là khó khăn về vốn, nên chủ đầu tư chưa thực hiện việc tạm ứng kịp thời cho các nhà thầu

3. Những khó khăn khi thực hiện cơ chế 797/400

Khó khăn về nguồn vốn.

Theo báo cáo gần nhất của EVN, CĐT các DA 797/400, nhu cầu vốn cho trả nợ và đầu tư cho các DA ngành Điện của EVN từ nay đến năm 2010 là 231.000 tỷ đồng. Trong đó, mới chỉ dự kiến thu xếp được 112 682 tỷ đồng, còn thiếu khoảng 108.000 tỷ đồng. Chỉ có 2 trong tổng số 14 DA đang triển khai theo cơ chế 797/400 ký kết được hợp đồng vay vốn. Như vậy, gần như tình trạng thiếu vốn thanh toán cho các nhà thầu xảy ra trong tất cả các dự án đang triển khai thi công.

Về cơ chế thanh toán

Hiện nay, vấn đề thanh toán giữa CĐT và NT đang gặp khó khăn vì không ký được HĐ giữa CĐT và NT, do CĐT chưa xây dựng được TDT để trình phê duyệt.

Về xây dựng định mức chuyên ngành Thuỷ điện.

Vấn đề vướng mắc của cơ chế là chỉ định thầu xây lắp là hợp đồng EPC với các tổng thầu xây lắp phải dựa trên tổng dự toán (TDT) được duyệt. Do bộ định mức xây dựng trước đây đã quá cũ và lạc hậu, Chính phủ đã cho phép xây dựng bộ định mức chuyên ngành thuỷ điện để lập TDT và áp dụng cho các dự án theo cơ chế 797/400.

Bộ Công nghiệp (BCN) đã đề nghị Bộ Xây dựng (BXD) thoả thuận để ban hành theo qui định, nhưng BXD chỉ thoả thuận một số danh mục, như vậy chưa đủ để CĐT lập TDT để trình duyệt.

Được biết, cho đến thời điểm này, CĐT và các NT hoàn toàn có cơ sở  để lập TDT và trình duyệt theo qui định.

Một số suy nghĩ về cơ chế 797/400

Cơ chế 797/400 đã có những ưu điểm thực tế trong việc giải quyết nhu cầu điện cấp bách của nước ta hiện nay và trong vài năm tới. Sự thành công bước đầu này đã thể hiện là hàng loạt các DA thuỷ điện đã được khởi công trong thời gian ngắn. Đặc biệt, đây là cơ hội rất tốt để phát huy năng lực của các doanh nghiệp trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khẳng định mình trong cơ chế thị trường trong thời gian tới.

Bên cạnh ưu điểm trên, cơ chế 797/400 còn bộc lộ những vướng mắc cơ bản cần phải tháo gỡ hoặc phải thay đổi, bổ sung nội dung cho cơ chế được hoàn thiện. Rõ ràng, không thể để tình trạng thi công không có hợp đồng kéo dài như hiện nay và các vấn đề khó khăn nảy sinh cho cả CĐT và các NT.

Tuy cơ chế 797/400 vẫn còn có những hạn chế nhất định, nhưng cái được cơ bản nhất, ý nghĩa nhất, hiệu quả nhất là những nhà quản lý đã mạnh dạn để ra được một cơ chế thông thoáng cho việc triển khai các dự án thuỷ điện, nhằm mang lại hiệu quả trong đầu tư xây dựng nguồn điện. Mong rằng, các bộ, ngành, địa phương cũng có những cơ chế tương tự như cơ chế 797/400 cho dự án của mình.
  • Tags: