Cơ hội và thách thức cho xuất khẩu mặt hàng gỗ

Hiện cả nước có trên 3.000 cơ sở chế biến đồ gỗ, trong đó khoảng 50% là cơ sở chế biến gỗ quy mô nhỏ với những sản phẩm tiêu thụ nội địa hoặc gia công; trong đó, có 970 doanh nghiệp chuyên chế biến đồ
Tiềm năng lớn cho xuất khẩu đồ gỗ

Lâu nay, khi nhắc đến các mặt hàng xuất khẩu (XK) chủ lực trong nông nghiệp người ta thường nói đến XK gạo, cà phê, điều, thủy sản…ít khi nhắc đến XK đồ gỗ. Thế nhưng, từ năm 2010, đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam đã phục hồi và tăng trưởng sau thời kỳ suy thoái tài chính- kinh tế toàn cầu. Có thể thấy, năm 2010 là một năm thành công đối với ngành xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam: Mặc dầu nền kinh tế thế giới vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro và sản xuất đồ gỗ - nội thất thế giới ước tính tăng trưởng 5%, nhưng xuất khẩu gỗ Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng cao, kim ngạch xuất khẩu đạt gần 3,5 tỉ USD, tăng 35% so với cùng kỳ 2009.

Sản phẩm gỗ chế biến trở thành mặt hàng XK có kim ngạch thứ 5 sau dệt may, dầu thô, giày dép và thủy sản. Nếu xét trong ngành nông nghiệp thì XK đồ gỗ chiếm ngôi vị á quân, chỉ đứng sau XK thủy sản và trên cả XK gạo đã khiến chúng ta phải nhìn lại ngành XK tiềm năng này.

Có thể thấy, sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2010, các thị trường XK đồ gỗ Việt Nam đều phục hồi đáng kể so với những năm trước. Đáng lưu ý là thị trường truyền thống như Mỹ đã tăng 15%, các nước EU tăng khoảng 8%. Doanh nghiệp XK đồ gỗ Việt Nam đã biết mở rộng thị trường, tiếp cận những thị trường được đánh giá là tiềm năng như Nga, Ấn Độ, Trung Đông…

Theo số liệu từ Hải quan Việt Nam, trong quý 1 năm 2011, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gỗ của Việt Nam hầu như đều tăng hơn so với cùng kỳ năm ngoái, tuy nhiên tăng mạnh ở một số thị trường như Ấn Độ, Nga, Xingapore, Thổ Nhỹ Kỳ, Thụy Sỹ. Hiện cả nước có trên 3.000 cơ sở chế biến đồ gỗ, trong đó khoảng 50% là cơ sở chế biến gỗ quy mô nhỏ với những sản phẩm tiêu thụ nội địa hoặc gia công; trong đó, có 970 doanh nghiệp chuyên chế biến đồ gỗ xuất khẩu, hơn 400 doanh nghiệp FDI... Thị trường xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam không ngừng được mở rộng, nếu như năm 2000 chỉ có mặt tại 50 quốc gia thì đến nay, sản phẩm gỗ Việt Nam đã có mặt trên thị trường của 120 quốc gia, vùng lãnh thổ, trong đó thị trường Mỹ chiếm 38% tổng giá trị xuất khẩu; các nước thuộc khối EU chiếm 44%; Nhật Bản chiếm 12%.

Theo dự báo của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Vifores), năm 2011 nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm gỗ của Việt Nam là rất lớn. Vì vậy, kim ngạch xuất khẩu gỗ của nước ta có thể đạt trên 4 tỷ USD, tăng khoảng 30% so với năm 2010 và đang đặt ra kỳ vọng tăng đến con số 8 - 9 tỷ USD vào năm 2015.

Thách thức cũng không phải là nhỏ

Bước qua những tháng đầu năm 2011, các doanh nghiệp xuất khẩu ngành Gỗ chưa kịp vui mừng với hàng loạt đơn hàng thì những biến động mạnh về tỷ giá và các chi phí đầu vào không ngừng gia tăng, gây không ít khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu của ngành này. Cụ thể, so với đầu năm 2010, giá gỗ nhập từ các thị trường như Mỹ, NewZealand tăng 15-30% (tùy loại); trong đó tăng mạnh nhất là các loại gỗ thông, sồi do nhu cầu sản xuất của nhiều nước tăng mạnh. Bên cạnh đó, những khó khăn mới về biến động tỷ giá, chi phí đầu vào làm giá nguyên liệu nhập khẩu tăng cao cũng là vấn đề bức xúc, gây nhiều bất lợi với hầu hết các doanh nghiệp, nhất là đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Quý 1 năm nay, hầu hết các đơn hàng cho xuất khẩu với số lượng lớn đều đã được đặt hàng đến hết năm. Tuy nhiên, các doanh nghiệp ngành gỗ đang chạy ngược chạy xuôi để tìm đủ nguyên liệu bởi nguồn cung trong nước mới chỉ đáp ứng 20% nhu cầu sản xuất. Khi giá nguyên liệu tăng, bắt buộc các nhà sản xuất sẽ phải tăng giá bán sản phẩm để cân đối kinh doanh. Như vậy, sẽ bất lợi khi cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các quốc gia khác có sẵn nguyên liệu hoặc nhập khẩu nguyên liệu gần hơn.

Thêm vào đó, lãi suất ngân hàng tại Việt Nam còn quá cao, điều này khiến cho các doanh nghiệp khó cạnh tranh với chi phí tài chính như hiện nay. Việc khó tiếp cận nguồn vốn vay cũng làm hạn chế khả năng mở rộng quy mô hoạt động, nhận làm đơn hàng lớn. Từ đó, doanh nghiệp nhỏ chỉ làm gia công lại cho các công ty lớn, giá bán sẽ không tốt, lợi nhuận sẽ rất thấp.

Hàng năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu gần 1 triệu m3 ván nhân tạo. Thị trường châu Âu vẫn là thị trường đầy thách thức đối với các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ trong năm nay, với hàng loạt tiêu chí kiểm tra ngặt nghèo về nguồn gốc nguyên vật liệu sản xuất (gỗ, hóa chất, sơn, chất phụ gia trong quá trình chế biến...) Cụ thể, tại thị trường lớn nhất là Mỹ, đạo luật Lacey của nước này quy định về việc cấm buôn bán gỗ và các sản phẩm gỗ có nguồn gốc bất hợp pháp, gây trở ngại rất lớn cho ngành XK đồ gỗ Việt Nam. Các doanh nghiệp cho rằng, nếu một khi tuân thủ các quy định của đạo luật trên, giá gỗ nguyên liệu có thể tăng tới 30% và thời gian để có đủ lượng gỗ theo đúng hợp đồng sẽ cần nhiều thời gian hơn. Điều này sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận và tính rủi ro cũng khá cao.

Ngoài ra, việc biến động của tỷ giá khiến nguồn nguyên liệu nhập khẩu để tái sản xuất của các doanh nghiệp ngành gỗ trong thời gian tới cũng trở lên khó khăn hơn vì hiện tại giá USD trên thị trường tự do đã lên đến trên 22.000đ/USD, trong khi đó việc mua đô la từ ngân hàng rất khó khăn. Đã thế, từ đầu tháng 3/2011 một loạt các chi phí mới như điện, cước vận chuyển... đã đồng loạt tăng giá, ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngành gỗ.

Trong khi đó, hầu hết các doanh nghiệp chế biến gỗ của ta chỉ làm gia công, không có thị trường tiêu thụ chủ động mà phụ thuộc nhiều vào khách hàng nước ngoài. Trong số 3.000 cơ sở hoạt động trong ngành Gỗ thì có tới hơn 50% là cơ sở chế biến quy mô nhỏ, trang thiết bị vừa cũ kỹ, vừa lạc hậu. Số lượng và chất lượng của đội ngũ công nhân trong ngành chưa đáp ứng yêu cầu, thiếu kỹ năng. Nguồn gỗ nguyên liệu thì bị động. Hiện Việt Nam phải nhập khẩu đến 70 - 80%, sự phát triển các nhà máy băm dăm mảnh gỗ XK đã vượt quá khả năng cung cấp nguyên liệu gỗ rừng trồng trong nước. Những hạn chế trên đã trì kéo mức tăng trưởng của ngành chế biến gỗ nước ta.

Giải pháp để xuất khẩu bền vững sản phẩm gỗ

Để sản phẩm gỗ XK bền vững, ngành Lâm nghiệp phải xác định được những chủng loại cây trồng phù hợp dành cho khai thác gỗ, đồng thời, cần xây dựng một chiến lược phát triển rừng bền vững. Nhiều chuyên gia lo ngại, sự ra đời ngày một nhiều doanh nghiệp chế biến gỗ có thể dẫn đến tình trạng khó kiểm soát trong khai thác lâm sản. Nếu không quản lý chặt sẽ dẫn đến tình trạng khai thác rừng tràn lan, gây hậu quả nghiêm trọng.

Bằng mọi giá, ngành sản xuất và kinh doanh sản phẩm gỗ cần phải tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu trong nước. Cụ thể, bên cạnh việc đầu tư trồng rừng, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp sản xuất ván nhân tạo và hạn chế xuất khẩu thô. Hiện, nhu cầu sử dụng đồ gỗ trên thế giới và trong nước đang ngày một tăng, gỗ được coi là ngành XK chủ lực của Việt Nam trong thời gian tới. Tuy nhiên, nếu không kiểm soát chặt chẽ việc khai thác gỗ thì mặt trái của tăng trưởng Ngành này sẽ tỷ lệ thuận với nạn chặt phá rừng.

Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần xem xét phương án sử dụng công nghệ tiết kiệm nguyên liệu, việc làm này sẽ làm giảm khoảng 15% nguồn tiêu hao nguyên liệu mỗi năm. Đặc biệt, việc làm cần thiết là phải giảm mọi chi phí đầu vào như tính toán lại dây chuyền công nghệ, nâng cao năng suất lao động, xây dựng quá trình thao tác làm việc hiệu quả và tiết kiệm tối đa chi phí sử dụng điện.

Nhiều doanh nghiệp gỗ cho rằng, ngoài việc duy trì khả năng tiêu thụ trên các thị trường đã có, các doanh nghiệp gỗ cần đẩy mạnh phát triển các thị trường mới như các quốc gia Tây Á, khu vực Đông Âu… và thị trường trong nước.

Vì vậy, các chuyên gia cho rằng, để ngành gỗ Việt Nam phát triển bền vững, Việt Nam cần có chính sách và cơ chế đủ mạnh để các chủ rừng tập trung kinh doanh gỗ lớn (chu kỳ 10 năm trở lên), quy hoạch vùng nguyên liệu theo lợi thế của từng vùng cho từng loại cơ cấu sản phẩm, cụ thể như nguyên liệu cho sản xuất đồ gỗ (cả nhu cầu xuất khẩu và trong nước), nguyên liệu cho sản xuất ván nhân tạo, gỗ xây dựng trong nước...
  • Tags: