Còn nhiều bất bình đẳng giữa DNNN và doanh nghiệp ngoài quốc doanh

LTS. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã chỉ rõ, thực hiện có hiệu quả Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và các luật mới được ban hành, thấu suốt quan điểm đổi mới, bảo đảm thực sự bình đẳng v

TS.Phạm Thị Thu Hằng - Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa - VCCI: Nhà nước cần phải nhanh chóng cải tiến các chương trình hỗ trợ và phải đặc biệt chú ý đến đặc điểm của các DNNQD.

Thông thường, ở hầu hết các nước trên thế giới, kể cả ở các nước đang phát triển, khu vực DNNQD đều gặp những khó khăn tương tự, và các chương trình hỗ trợ DNNQD thường được xây dựng để giải quyết những vấn đề trên. ở Việt Nam, các vướng mắc chính mà hiện nay các DNNQD gặp đó là các chương trình, chính sách hỗ trợ chưa tạo điều kiện để DNNQD tiếp cận các nguồn lực một cách dễ dàng. Đương nhiên, cũng tuỳ từng giai đoạn phát triển mà các DNNQD gặp những khó khăn khác nhau, ở mức độ khác nhau. Hiện tại, vấn đề môi trường kinh doanh - đặc biệt ở cấp độ địa phương đối với DNNQD đang là vấn đề vướng mắc đáng kể. Theo đó, nếu việc giảm các thủ tục hành chính trong đăng ký kinh doanh và giải quyết mặt bằng sản xuất sẽ giúp cho DNNQD giảm thiểu được đáng kể những chi phí không cần thiết.

Tương tự, những vấn đề nội tại của DN như phát triển nguồn nhân lực, quản trị doanh nghiệp, đổi mới công nghệ để cạnh tranh với các DN toàn cầu cũng là những khó khăn bức xúc lớn. Các DN lớn có thể tự giải  quyết được, nhưng các DNNQD lại rất cần sự hỗ trợ từ phía các tổ chức xúc tiến phát triển DN và của các cơ quan Nhà nước.

Trong quá trình hỗ trợ DNNQD, chúng tôi nhận thấy: Để có thể đẩy mạnh hơn nữa công tác hỗ trợ, Nhà nước cần phải nhanh chóng cải tiến các chương trình hỗ trợ và phải đặc biệt chú ý đến đặc điểm kinh doanh của các DNNQD. Trên thực tế Nhà nước cũng đã có một số  chương trình hỗ trợ về công nghệ, xúc tiến thương mại, phát triển công nghiệp nông thôn, Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNQD... Tuy nhiên, các DNNQD lại rất ít có cơ hội để tiếp cận với các chương trình này, thường thì các tiêu chí tham gia rất khó - chỉ có DN lớn mới có thể thoả mãn được. Mặt khác, các DNNQD cũng cần phải chủ động trong việc tăng cường năng lực của mình, chủ động trong việc liên kết với các DN khác- điều này không chỉ có lợi cho chính bản thân các DN nhỏ, mà cũng là niềm mong chờ của các DN lớn trong nền kinh tế “mạng” hiện nay.   

TS. Mai Huy Tân – Tổng Giám đốc Công ty Liên doanh TNHH Việt Đức: Trên thực tế doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn bị phân biệt đối xử.

Hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân đã phát triển rất nhanh và ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Về nguyên lý, ta thường nói đến sự bình đẳng của các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn vấp phải nhiều sự phân biệt đối xử trong quá trình phát triển khi phải tiếp cận và xử lý các vấn đề của doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước – công cụ điều hành chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ.

Về đất đai, trong lúc các nông, lâm trường quốc doanh được giao sử dụng nhiều triệu hécta đất rừng và đất nông nghiệp nhưng hiệu quả sử dụng rất thấp, tạo ra rất ít sản phẩm và rất ít công ăn việc làm cho người lao động thì doanh nghiệp tư nhân muốn đầu tư các dự án nông, lâm nghiệp lại rất khó tiếp cận với nguồn tài nguyên đất đai to lớn này, dù rằng về mặt chính sách thì doanh nghiệp nông nghiệp nông thôn là một hình thức đang được ưu tiên và chú trọng phát triển.

Ngoài lĩnh vực đất đai thì việc tiếp cận với các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước cũng không hề bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, trong đó khu vực kinh tế tư nhân sử dụng nguồn vốn có hiệu quả nhất lại là một khu vực ít được Nhà nước đầu tư và cho vay nhất. Ví dụ: Có nghị định của Chính phủ về cho vay ưu đãi đối với các dự án đầu tư sản xuất con giống, chăn nuôi tập trung, giết mổ gia súc, gia cầm tập trung và chế biến thịt, về lý thuyết thì các doanh nghiệp đều có thể được vay nguồn vốn này. Tuy nhiên, doanh nghiệp tư nhân rất khó tiếp cận. Một ví dụ khác: Chính phủ có các nguồn vốn ODA, nhưng nguồn vốn này hầu như chỉ được giao cho khu vực kinh tế quốc doanh, dù rằng hiệu quả sử dụng nguồn vốn thấp và có rất nhiều lãng phí, thất thoát khi tổ chức thực hiện. Rõ ràng cần có những hình thức cho mọi thành phần kinh tế tham gia các dự án có vốn ODA.

Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng hầu như rất ít được Nhà nước hỗ trợ về nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ. Trong khi Bộ Khoa học và Công nghệ không sử dụng hết nguồn vốn thì các doanh nghiệp tư nhân có nhu cầu và có khả năng ứng dụng hiệu quả thì lại hầu như không có khả năng tiếp cận nguồn vốn này, thậm chí kể cả về mặt cung cấp thông tin và hướng dẫn phương pháp tiếp cận.

Là một doanh nghiệp tư nhân, chúng tôi thấy rằng, cần tích cực và nhanh chóng thay đổi tư duy, cách làm, cách hành xử đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh để các doanh nghiệp tư nhân có thể phát triển mạnh mẽ và bình đẳng hơn nữa. Các hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc là các hiệp hội theo ngành nghề cũng cần được phát huy hơn nữa vai trò của họ trong việc tổ chức tư vấn, hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi cho hội viên trong mối quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước các cấp.

ThS. Phạm Thanh Tùng - Trưởng phòng Phát triển doanh nghiệp công nghiệp và HTX (Cục CNĐP): Cần thúc đẩy nhanh việc thành lập nhiều DN ở nông thôn, đồng thời nâng cao hơn nữa tính hợp tác và cạnh tranh trong các DN.

Trong khi Nhà nước không đủ nguồn lực đầu tư cho tất cả các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân, mà chỉ tập trung vào một số lĩnh vực then chốt, có vai trò điều tiết và đảm bảo an ninh kinh tế – xã hội, thì các DNNQD, cùng với các DN FDI làm nhiệm vụ thay thế một phần công việc đó.  Cùng với việc huy động được mọi nguồn lực trong xã hội, đặc biệt là sử dụng hiệu quả hơn nguồn tài nguyên và nhân lực, tạo nhiều công ăn, việc làm và góp phần nâng cao đời sống cho nhân dân các địa phương, thì các DNNQD đã cung cấp một phần hàng hoá, dịch vụ, góp phần đáp ứng đầy đủ và tốt hơn hơn nhu cầu xã hội. Chính vì vậy, ngày 26/10/2007, Thủ tướng CP đã ban hành Chỉ thị số 22/CT-CP, về phát triển DN dân doanh. Theo đó, Cục CNĐP đã được Bộ Công Thương giao nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng đề án phát triển doanh nghiệp ở nông thôn gắn với chương trình khuyến công theo quyết định 136/2007/QĐ-TTg và kế hoạch 5 năm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quyết định số 236/2006/QĐ-TTg. Vì vậy, cần thiết phải thúc đẩy nhanh hơn nữa việc thành lập thêm nhiều DN ở nông thôn.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các DN dân doanh cần nâng cao hơn nữa tính hợp tác và cạnh tranh trong quá trình phát triển, bởi lẽ, quan niệm về “miếng bánh” trong thời hội nhập không phải như xưa, mà là miếng bánh ngày càng to hơn. Vì thế, các DN cần hợp tác với nhau trong các lĩnh vực như nghiên cứu thị trường, phát triển công nghệ, liên kết đào tạo... nhằm giảm tối đa chi phí sản xuất, đồng thời phải tự nâng cao năng lực cạnh tranh trong chính nội tại DN. Bên cạnh đó, cùng với các công cụ hỗ trợ phát triển DN như cung cấp thông tin, dịch vụ phát triển kinh doanh, tiếp cận tài chính, mặt bằng... cần nâng cao hơn nữa vai trò của các hiệp hội ngành nghề, các CLB DN, cũng như đổi mới các công tác tham quan, hội thảo, hội chợ... sao cho thực sự hữu ích với DN.

Ông Nguyễn Xuân Trình, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa: Có sự phân biệt đối xử giữa DNNN và doanh nghiệp ngoài quốc doanh (NQD).

Hai năm đầu sau cổ phần hóa, do có sự trục trặc trong việc xác định giá trị doanh nghiệp nên Công ty chúng tôi phải hoạt động bằng vốn vay. Cũng từ đây chúng tôi mới thấy nỗi khổ của DNNQD khi đi vay vốn ngân hàng. Thời gian chờ đợi lâu, thủ tục rườm rà đã làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.

Đến nay sau hơn 5 năm hoạt động, Công ty chúng tôi đã dần quen  với vai trò vị trí mới - DNNQD và bắt đầu làm ăn có hiệu quả.

Tuy nhiên hiện nay chúng tôi đang phải đối mặt với một vấn đề vô cùng khó khăn, đó là thiếu vùng nguyên liệu để phục vụ cho sản xuất của Công ty. Vấn đề này Công ty cũng đã nhiều lần đề nghị nhưng các phòng ban chức năng của tỉnh Tây Ninh vẫn chưa quan tâm giải quyết.

Ngoài ra, tình trạng đường nhập lậu vào Việt Nam qua biên giới Thái Lan và Cămpuchia cũng gây khó khăn lớn trong việc tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Vì vậy, chúng tôi khẩn thiết đề nghị ngành Hải quan, Thuế vụ tỉnh Tây Ninh sớm có giải pháp tích cực nhằm ngăn chặn tệ nạn đường nhập lậu từ nước ngoài, giúp chúng tôi ổn định sản xuất - kinh doanh.

Ông Huỳnh Tấn Quyền – Giám đốc Hành chính - Tổ chức Công ty Cổ phần Dây và Cáp điện Thượng Đình: Còn quá nhiều phân biệt đối xử giữa DNNN và DN ngoài quốc doanh.

Sau gần 10 năm làm việc tại một doanh nghiệp ngoài quốc doanh (NQD) tôi thấy còn nhiều sự phân biệt đối xử giữa DNNN và DNNQD. Đầu tiên xin được đề cập đến tên gọi. DNNN về bản chất dựa vào nguồn vốn đầu tư của nhà nước, từ ngân sách nhà nước; Còn doanh nghiệp ngoài quốc doanh là doanh nghiệp có vốn đầu tư cá nhân hoặc thế chấp tài sản để vay vốn ngân hàng. Hiện nay trong quá tình đổi mới DNNN, nhiều DNNN đã chuyển đổi thành công ty cổ phần, Nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối cho nên doanh nghiệp này không còn là DNNN nữa. Như vậy, số DNNN sẽ ngày càng ít đi và ngược lại doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ tăng lên. Vì vậy đã đến lúc cần nghiên cứu đổi lại tên cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vì tên gọi này nghe chừng đã lạc hậu, không còn phù hợp với thời kỳ đổi mới, lại gây cảm giác như con nuôi, so với con đẻ là DNNN.

DNNQD hiện thật khó tiếp cận với các nguồn vốn hỗ trợ, ưu đãi từ các tổ chức tín dụng nhà nước, quỹ hỗ trợ phát triển. Như vậy đã làm giảm sức cạnh tranh so với DNNN. Ngoài ra mọi thủ tục xin thuê đất, thuê địa điểm đầu tư đều khó khăn tốn kém hơn DNNN. Việc lập và phê duyệt các dự án đầu tư của DNNQD cũng rất nhiêu khê, tốn kém mà còn mất nhiều thời gian đi lại, nhiều khi làm mất cơ hội đầu tư. Công tác đào tạo, thu hút nguồn nhân lực đối với doanh nghiệp NQD cũng gặp khó khăn không kém. Tâm lý chung của người có trình độ, học vị cao, họ không muốn làm việc ở khu vực NQD mà đều có tâm lý xin được vào làm việc ở cơ quan quản lý nhà nước hoặc DNNN. Muốn có cán bộ giỏi chúng tôi đều phải tự bỏ tiền ra đào tạo rất tốn kém. Hiện nay, Nhà nước cũng chưa có chính sách hỗ trợ xuất khẩu  các sản phẩm do DNNQD làm ra, mà chủ yếu họ phải tự mầy mò tìm đường xuất khẩu. Các giải thưởng về nhán mác hàng hóa, thương hiệu, tôn vinh doanh nghiệp chủ yếu là làm theo phong trào và phần lớn các doanh nghiệp trong khối dân doanh tự tổ chức, tự tôn vinh lẫn nhau mà chưa có sự quan tâm của các tổ chức thuộc cơ quan nhà nước. Đó là chưa kể đến mối quan hệ hai chiều giữa doanh nghiệp ngoài quốc doanh với các cơ quan nhà nước, các bộ ngành và chính quyền địa phương nhìn chung chưa được thiết lập. Như vậy giữa DNNN và DNNQD còn quá nhiều điểm phân biệt đối xử.

  • Tags: