1. Củng cố và nâng cao vai trò trách nhiệm, hiệu quả hoạt động của công tác AT- VSLĐ- PCCN
- Hoàn thiện và tăng cường hoạt động của Ban chỉ đạo Tuần lễ quốc gia về AT-VSLĐ- PCCN nhằm tập trung chỉ đạo các doanh nghiệp, đơn vị thuộc Bộ thực hiên các mục tiêu đặt ra.
- Hướng dẫn, chỉ đạo các Sở Công nghiệp về chuyên môn, nghiệp vụ để làm tốt chức năng, nhiệm vụ của Sở là cơ quan tham mưu giúp UBND Tỉnh, Thành phố thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực có liên quan đến an toàn công nghiệp, vật liệu nổ CN và các lĩnh vực công nghiệp khác theo phân cấp tại địa phương.
- Bộ Công nghiệp và Công đoàn CNVN đã hướng dẫn các đơn vị trong ngành kiểm tra việc thực hiện công tác bảo hộ lao động, bảo đảm quyền tham gia và kiểm tra, giám sát của tổ chức công đoàn, tăng cường, củng cố mạng lưới an toàn, vệ sinh viên với gần 30.000 người, chiếm gần 6,4% tổng số người lao động trong toàn Ngành.
2. Tiếp tục hoàn chỉnh, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về AT-VSLĐ-PCCN
Trong năm 2004, Bộ CN đã chỉ đạo sửa đổi, soạn thảo mới hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có các văn bản về kỹ thuật an toàn thuộc các lĩnh vực điện, hoá chất, mỏ, dầu khí, giám sát điện năng, các thiết bị - máy móc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động và an toàn đặc thù, vật liệu nổ công nghiệp, như: Nghị định số 118/2004/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung Nghị định số 54/NĐ-CP về bảo vệ an toàn lưới điện cao áp; Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực VLNCN đang trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành; phối hợp với Tổng cục Đo lường - Tiêu chuẩn - Chất lượng trình Bộ Khoa học-Công nghệ, ký ban hành TCVN 5178-2004 “Quy phạm an toàn khai thác đá lộ thiên”; biên soạn và trình Bộ Công nghiệp ban hành “Quy định tổ chức và hoạt động của lực lượng cấp cứu mỏ chuyên trách”; Dự thảo sửa đổi Thông tư số 11/CN-CL, chuẩn bị ký ban hành “Thông tư hướng dẫn về quản lý, sản xuất, kinh doanh cung ứng và sử dụng VLNCN”, Quy chế quản lý KTAT đối với máy, thiết bị, hoá chất độc hại, có yêu cầu an toàn đặc thù chuyên ngành công nghiệp và Danh mục máy, thiết bị, hoá chất độc hại, có yêu cầu an toàn đặc thù chuyên ngành công nghiệp; biên soạn 5 quy trình kiểm định các thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động; soạn thảo quy trình cấp phép sử dụng VLNCN cho chương trình xây dựng thực hiện tiêu chuẩn ISO 9001-2000 do Bộ tổ chức,...
3. Tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ - thiết bị theo hướng tăng cường kỹ thuật an toàn
Bộ Công nghiệp đã chỉ đạo tập trung đầu tư đổi mới công nghệ cho những ngành nghề có tiềm ẩn nhiều nguy cơ xảy ra tai nạn, độc hại như than, điện, thép, hoá chất, xây dựng công nghiệp... theo hướng tăng cường kỹ thuật an toàn, ngăn chặn khả năng xảy ra tai nạn cho người lao động như áp dụng rộng rãi công nghệ khai thác sử dụng cột chống thuỷ lực đơn và giá thuỷ lực di động ở các mỏ hầm lò, dàn chống mềm cho vỉa dày dốc đứng, các hệ thống cảnh báo an toàn khí CH4; sử dụng máy xúc thuỷ lực gầu ngược khi khai thác xuống sâu ở mỏ lộ thiên, áp dụng máy combain khấu than và máy combain đào lò vào các mỏ hầm lò vùng than Quảng Ninh; các nhà máy nhiệt điện khí và than đã áp dụng công nghệ đốt tiên tiến, có hiệu suất cao, đồng thời giảm thiểu nồng độ phát thải NOx, SOx, tiếp nhận chuyển giao công nghệ kiểm soát và xử lý triệt để chất thải ô nhiễm; làm chủ các công nghệ cao, phức tạp của kỹ thuật truyền tải điện 500 kV; áp dụng công nghệ tin học, tự động hoá trong toàn bộ khâu quản lý điều hành hệ thống điện và quản lý kinh doanh điện; kỹ thuật sửa chữa trên đường dây nóng (hot-line); hoàn thiện thiết bị và công nghệ sản xuất axit H2SO4, HCl, acquy; bổ sung thiết bị và công nghệ mới trong sản xuất bột giặt, chất tẩy rửa; dây chuyền thiết bị công nghệ mới tiên tiến để sản xuất NPK; đổi mới thiết bị cán ép, tạo hình, lưu hoá giảm mài mòn và tăng độ toả nhiệt của lốp; các phương pháp thiết kế và gia công cơ khí với sự trợ giúp của máy tính (CAD/CAM); sản xuất các máy hàn cắt laser điều khiển tự động bằng chương trình số...
4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về AT-VSLĐ-PCCN cho người sử dụng lao động và người lao động
Bộ CN và Công đoàn CNVN đã thành lập Ban Chỉ đạo, Tổ thường trực và hướng dẫn các Tổng Công ty, các doanh nghiệp và các đơn vị trực thuộc để triển khai rộng khắp Tuần lễ quốc gia về AT-VSLĐ-PCCN hàng năm trong toàn Ngành, nhằm phát động sâu rộng phong trào quần chúng lao động, nâng cao ý thức trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động chấp hành đúng quy định pháp luật về BHLĐ, đảm bảo AT-VSLĐ-PCCN, phòng chống tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, bảo vệ tài sản Nhà nước và tài sản công dân, góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong tháng 3/2004, tại thời điểm diễn ra các hoạt động hưởng ứng TLQG lần thứ VI, các đơn vị trong Bộ Công nghiệp đã tổ chức 65 lớp tập huấn, huấn luyện với 18.300 người được huấn luyện, 15 cuộc tọa đàm phỏng vấn trên truyền hình (T¦ và địa phương), 5 cuộc thi tìm hiểu về AT-VSLĐ-PCCN với khoảng 1800 người tham gia, tổ chức 4 cuộc thi an toàn-vệ sinh viên giỏi với 1500 người tham gia, 4 cuộc trưng bày các hoạt động về AT-VSLĐ-PCCN, thăm 155 gia đình nạn nhân, người bị nạn; khoảng 5.000 người tham gia thao diễn kỹ thuật an toàn và chữa cháy.
Bộ CN đã chỉ đạo Cục KTATCN phối hợp với các cơ quan liên quan làm báo cáo tổng kết 3 năm (2001-2003) về công tác an toàn-vệ sinh lao động-phòng chống cháy nổ, gửi đến các đơn vị trực thuộc và các Sở CN. Nhân dịp này, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp đã tặng Cờ thi đua xuất sắc cho 21 tập thể, tặng Bằng khen cho 67 tập thể và 49 cá nhân đã có nhiều thành tích thi đua thực hiện Năm an toàn công nghiệp 2003.
Đặc biệt trong năm 2004, Bộ Công nghiệp đã tổ chức được Hội nghị tổng kết công tác quản lý, sản xuất kinh doanh và sử dụng VLNCN giai đoạn 1996-2004 Bộ Công nghiệp cũng đã có Công văn nhắc nhở các đơn vị thuộc Bộ, các Sở CN, có biện pháp hữu hiệu nhằm tăng cường công tác AT-VSLĐ-PCCN.
5. Tăng cường công tác kiểm tra và tự kiểm tra việc chấp hành và xử lý các vi phạm qui trình, qui phạm kỹ thuật an toàn, chế độ chính sách BHLĐ của các đơn vị trong toàn Ngành.
Trong năm 2004, Bộ chỉ đạo thực hiện trên 80 cuộc kiểm tra tại một số đơn vị của các TCty trong ngành công nghiệp có tiềm ẩn nhiều mối nguy hiểm gây mất an toàn, dễ cháy nổ thuộc các ngành Than, Điện, Thép, Hoá chất, Xây dựng Công nghiệp, Dệt - May, Giấy...
Trong kiểm tra đã phát hiện những khâu yếu và yêu cầu cơ sở có biện pháp khắc phục trong thời gian hạn định và báo cáo Bộ về các kết quả thực hiện các kiến nghị của Đoàn kiểm tra.
6. Công tác huấn luyện AT - VSLĐ - PCCN
Các đơn vị cơ sở đã đưa vấn đề huấn luyện an toàn định kỳ vào “Kế hoạch BHLĐ hàng năm và hầu hết đội ngũ công nhân trực tiếp sản xuất đều được huấn luyện định kỳ hàng năm về an toàn; các cán bộ quản lý được huấn luyện 2 năm 1 lần.
Cục KTATCN, các Trung tâm KĐKTATCN phối hợp với các Sở CN đã trực tiếp tổ chức nhiều lớp tập huấn chuyên đề về KTAT, PCCN cho các đơn vị cơ sở trong Ngành với trên 6000 người tham dự.
Hiện đang đẩy mạnh công tác biên soạn hệ thống tài liệu, giáo trình, giáo án huấn luyện cho từng chuyên ngành để hoàn chỉnh và thống nhất trong toàn Ngành.
7. Kiểm tra việc thực hiện quản lý vệ sinh lao động, quản lý sức khoẻ người lao động và phòng chống bệnh nghề nghiệp
Riêng trong năm 2004, Bộ Công nghiệp đã chỉ đạo kiểm tra trên 600 lượt cơ sở y tế. Kết quả kiểm tra tại các đơn vị cơ sở do Bộ Công nghiệp quản lý cho thấy, hầu hết các cơ sở đều thực hiện đo đạc, kiểm tra các yếu tố môi trường lao động hàng năm, 92-98,5% tổng số người lao động trực tiếp đã được khám sức khỏe định kỳ. Trong kế hoạch BHLĐ năm 2004 của các đơn vị có ghi rõ việc thực hiện chế độ ăn ca, bồi dưõng độc hại, chế độ nghỉ ngơi, điều dưỡng phục hồi chức năng, các biện pháp và kinh phí dành cho cải thiện môi trường lao động.
Nhìn chung, việc thực hiện quản lý vệ sinh lao động, quản lý sức khoẻ người lao động và phòng chống bệnh nghề nghiệp đã có nhiều tiến bộ, góp phần bảo vệ sức khoẻ người lao động, phát triển nguồn nhân lực.
8. Về tai nạn lao động
Công tác theo dõi thống kê báo cáo (định kỳ và đột xuất) về tình hình sự cố máy móc thiết bị, tai nạn lao động, cháy nổ và công việc này đã có tiến bộ nhất định. Đây là công việc vừa mang tính hệ thống vừa mang tính thời sự và nhạy cảm, rất cần để Bộ trưởng có ý kiến chỉ đạo và uốn nắn, có biện pháp khắc phục, rút kinh nghiệm kịp thời.
Hàng quý, Bộ công nghiệp có thông báo tình hình tai nạn trong Ngành đến các Sở Công nghiệp, và các đơn vị trực thuộc, phân tích tai nạn lao động theo lĩnh vực xảy ra, theo các nguyên nhân về kỹ thuật, về quản lý-tổ chức... và có ý kiến nhắc nhở các đơn vị để xảy ra nhiều tai nạn lao động chết người, đặc biệt những thời điểm tần suất xảy ra tai nạn lao động nhiều, tai nạn lao động chết người đột nhiên tăng cao, hoặc những ngành, điểm nóng... và yêu cầu các đơn vị có biện pháp khắc phục kịp thời.
Mặc dù đã được các cấp, các ngành quan tâm ngăn chặn giảm thiểu tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, song tình hình tai nạn lao động vẫn diễn ra rất phức tạp. Theo thống kê chưa đầy đủ (mới chỉ 13/16 TCTy 90 và TCTy 91, 9/35 Công ty trực thuộc có báo cáo), năm 2004 đã xảy ra 942 vụ tai nạn, sự cố trong sản xuất; trong đó có 51 vụ tai nạn chết người với 57 người chết [có 14 người chết do tai nạn giao thông (TNGT) và 1 chết do thiên tai (TT)].
So với năm 2003:
- Tổng số vụ TNLĐ giảm 240 vụ (giảm 20,03%)
- Tổng số người bị TNLĐ giảm 228 người (giảm 18,98%)
- Số vụ TNLĐ chết người tăng 16 vụ (tăng 45,7%)
- Số người chết do TNLĐ tăng 22 người (tăng 61,1%)
Mặc dù tổng số vụ TNLĐ có giảm, song số vụ TNLĐ nghiêm trọng gây chết người vẫn xảy ra nhiều, nhất là trong các ngành có nguy cơ cao như ở TCTy Than Việt Nam đã xảy ra 22 vụ làm chết 26 người (tăng 44,4% so với năm 2003); TCTy Điện lực VN xảy ra 9 vụ với 9 người chết (gấp 3 lần so với năm 2003); TCTy XDCN VN xảy ra 6 vụ, 7 người chết (tăng 75% so với năm 2003); TCTy Thép VN xảy ra 4 vụ, 5 người chết (tăng 25% so với năm 2003), TCTy Hoá chất xảy ra 3 vụ, 4 người chết (gấp 4 lần so với năm 2003). (Xem bảng)
Nguyên nhân cơ bản để xảy ra tai nạn lao động là do nhận thức về công tác AT-VSLĐ-PCCN chưa đầy đủ, kể cả trong cán bộ quản lý và công nhân trực tiếp sản xuất, vì vậy ý thức phòng ngừa tai nạn xảy ra chưa thường trực.
Đa số (70-80%) các TNLĐ xảy ra đều có nguyên nhân do người lao động không tuân thủ nghiêm khắc quy trình, quy phạm an toàn. Nhiều trường hợp do không thực hiện đúng các quy định trong phương án thi công, không thực hiện đầy đủ những quy định trong quy trình KTAT; chế độ phiếu công tác, phiếu thao tác thực hiện còn nhiều thiếu sót. Người lao động chưa thực sự có ý thức tự giác thực hiện nội quy kỷ luật sản xuất, chủ quan, xem nhẹ sự an toàn của chính bản thân mình.
Tai nạn lao động còn xảy ra nhiều, còn do sự đôn đốc, kiểm tra giám sát công tác AT-VSLĐ-PCCN của các cấp nhiều chỗ còn thiếu chặt chẽ, kém hiệu quả và xử phạt chưa nghiêm. Trong quản lý còn có nhiều thiếu sót trong các khâu từ thiết kế, lập phương án thi công đến kiểm tra giám sát thi công. Điều này thể hiện rõ nhất trong khâu khai thác mỏ và trong các đơn vị xây lắp điện.
Cần chú ý là tai nạn điện trong dân ngày càng trở nên bức xúc, số vụ chết người do sử dụng điện ngày càng gia tăng. Năm 2004, chỉ với số liệu báo cáo của 28/64 Sở Công nghiệp đã xảy ra 206 vụ tai nạn điện trong dân, làm 241 người bị nạn, trong đó có 191 người chết. Nguyên nhân chủ yếu là do sự thiếu hiểu biết, bất cẩn của đại bộ phận người dân như dựng cột an ten chạm vào đường dây mang điện, vi phạm hàng lang bảo vệ lưới điện khi cơi nới, xây dựng nhà cửa, sử dụng điện phục vụ sinh hoạt hoặc đánh bắt cá kiếm sống, bẫy chuột, bẫy trộm... Việc thiếu quan tâm, quản lý chưa chặt chẽ của các cơ quan có trách nhiệm, nhất là các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương nên số vụ vi phạm an toàn hành lang lưới điện cao áp có chiều hướng gia tăng (theo báo cáo năm 2003, phân tích tai nạn chết người theo cấp điện áp thì cao áp mới chỉ chiếm 23% thì năm 2004 đã là 57%).
Nhìn chung, có thể thấy rằng, công tác an toàn- vệ sinh lao động- phòng chống cháy nổ của Bộ Công nghiệp đã được quan tâm đúng mức và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, để đạt được kết quả một cách ổn định và vững chắc trong thời gian tới cần tiếp tục thực hiện tốt các vấn đề sau.
- Tiếp tục giáo dục thường xuyên nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về vấn đề AT-VSLĐ-PCCN, nâng cao tính tự giác của người lao động trong việc đảm bảo an toàn cho bản thân và đồng đội của mình.
- Giám đốc các doanh nghiệp phải đặc biệt quan tâm và chịu trách nhiệm trước pháp luật về an toàn trong sản xuất.
- Cần phải phát huy hơn nữa vai trò của Công đoàn trong chỉ đạo hoạt động của mạng lưới AT-VSV.
- Tăng cường công tác tự kiểm tra của cơ sở, coi đây là việc quan trọng nhất, có hiệu quả cao nhất và cần thực hiện thường xuyên nhất.
- Khi xảy ra các sự cố, tai nạn nhất thiết phải khai báo, kiểm điểm, xác định đúng nguyên nhân, có biện pháp khắc phục không để xảy ra tai nạn tương tự, xử lý nghiêm đối với tổ chức, cá nhân có sai phạm theo đúng các quy định của pháp luật.
- Kịp thời động viên, khen thưởng, khuyến khích vật chất cho các cá nhân, đơn vị thực hiện tốt công tác sản xuất và an toàn để thiết thực góp phần phát triển sản xuất một cách bền vững, vì an toàn chính là niềm hạnh phúc lớn lao của mọi người lao động.
Công tác an toàn - vệ sinh lao động - Phòng chống cháy nổ ở Bộ Công nghiệp
TCCT
Trong những năm qua Bộ Công nghiệp đã coi việc đảm bảo an toàn là một trong những yếu tố quan trọng góp phần phát triển sản xuất ổn định và bền vững và đã chú trọng công tác an toàn - vệ sinh lao động