Đã có tiêu chí túi NILON thân thiện môi trường

Ngày 04/7/2012, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 07/2012/BTNMT quy định tiêu chí, trình tự, thủ tục công nhận túi ni lông thân thiện với môi trường, được nhập khẩu, sản xuất và sử d
Theo đó, túi ni lông được cấp Giấy chứng nhận túi ni lông thân thiện với môi trường phải bảo đảm đáp ứng đầy đủ các tiêu chí quy định như: Có độ dày một lớp màng lớn hơn 30 µm (micrômét), kích thước nhỏ nhất lớn hơn 20 cm (xăngtimét) và tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu túi ni lông phải có kế hoạch thu hồi, tái chế; Có khả năng phân hủy sinh học tối thiểu 60% trong thời gian không quá hai (02) năm.

Ngoài ra, túi ni lông có hàm lượng tối đa cho phép của các kim loại nặng quy định như sau: Asen (As): 12 mg/kg; Cadimi (Cd): 2 mg/kg; Chì (Pb): 70 mg/kg; Đồng (Cu): 50 mg/kg; Kẽm (Zn): 200 mg/kg; Thủy ngân (Hg): 1 mg/kg; Niken (Ni): 30 mg/kg.

Túi ni lông được sản xuất tại hộ gia đình, tại cơ sở sản xuất tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.

Giấy chứng nhận túi ni lông thân thiện với môi trường có hiệu lực không quá 36 (ba mươi sáu) tháng, kể từ ngày được cấp. Giấy chứng nhận túi ni lông thân thiện với môi trường được gia hạn nhiều lần, mỗi lần gia hạn có hiệu lực không quá 24 (hai mươi bốn) tháng, kể từ ngày được gia hạn. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20 tháng 8 năm 2012.

Liên quan về túi ni lông, Khoa Khoa học vật liệu – trường Đại học Khoa học tự nhiên TP.Hồ Chí Minh cũng đã thành công với công trình nghiên cứu sản xuất túi ni lông (bao bì) có khả năng phân hủy sinh học, trên cơ sở phối trộn giữa 60% nhựa thông thường với 30% lượng tinh bột (thường là bột mì), trong đó, tinh bột được dùng như phụ gia kết nối các phân tử nhựa, sau khi sử dụng, sản phẩm thường được xử lý bằng phương pháp chôn lấp, trong môi trường có độ ẩm và nhiệt độ, tinh bột bị phân hủy bởi vi sinh vật có trong đất hoặc môi trường tự nhiên. Sự phân hủy tinh bột làm phát sinh thêm các men vi sinh tác kích vào các mạch phân tử nhựa và xúc tiến gây ra quá trình phân hủy sinh học của nhựa được nhanh hơn. Về mặt lý thuyết thì thời gian bắt đầu phân rã là 6 tháng và phân hủy hoàn toàn là trên 5 năm. Đặc biệt, sản phẩm chỉ bị phân hủy khi được chôn xuống đất. Bước đầu công nghệ sản xuất bao bì này hoạt động với công suất 1 tấn hạt nhựa/giờ. Thị trường chủ yếu của sản phẩm này là Nhật Bản. Tuy nhiên, theo nhận định của thị trường, giá thành của sản phẩm này bằng hoặc cao hơn bao bì nhựa thông thường khoảng 5%.