TÓM TẮT:
“Đầu tư công - Quản trị tư” là mô hình dựa trên cơ sở lý luận, thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, thể hiện vai trò của kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất. Bên cạnh đó, cần có thể chế và công cụ chuyển đổi số mạnh mẽ để kiểm soát việc khu vực tư nhân khai thác tài sản công. Đồng thời cần thúc đẩy sự tự chủ hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập với khu vực tư nhân.
Từ khóa: Marx-Lenin, công nghiệp bán dẫn, nhân lực, đào tạo, phát triển kinh tế.
1. Đặt vấn đề
Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị khóa XIII, kinh tế tư nhân đã được xác định là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo (Bộ Chính trị, 2025). Quan điểm này dựa trên cơ sở lý luận khoa học và yêu cầu cấp thiết của thực tiễn phát triển đất nước trong bối cảnh lịch sử mới. Từ đó, việc thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân trở thành 1 trong 4 trụ cột để tạo nên sự phát triển đột phá của đất nước.
Để cụ thể hóa quan điểm chiến lược về vai trò của kinh tế tư nhân như một động lực quan trọng nhất, cần có mô hình vận hành cụ thể. Trong đó, “Đầu tư công - Quản trị tư” là một mô hình được chú trọng nghiên cứu về cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế và định hướng triển khai vào thực tiễn.
2. Cơ sở lý luận của mô hình “Đầu tư công - Quản trị tư” dựa trên mối liên hệ giữa quan hệ sở hữu và quan hệ quản lý
Theo nguyên lý cơ bản của Học thuyết Marx-Lenin, quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất, để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, tạo nên sự vận động tiến bộ của nền kinh tế - xã hội, mà kết quả trực tiếp là sự phát triển phồn vinh, thịnh vượng của đất nước trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Trong quan hệ sản xuất, tồn tại 3 mặt là: quan hệ sở hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu (quan hệ sở hữu); quan hệ tổ chức và quản lý về kinh tế (quan hệ quản lý); quan hệ phân phối sản phẩm từ lao động sản xuất (quan hệ phân phối). Ba mặt này có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau. Trong đó, quan hệ sở hữu giữ vai trò quan trọng nhất, quyết định và chi phối quan hệ quản lý và quan hệ phân phối.
Theo quy luật lịch sử, lực lượng sản xuất đi từ trình độ thấp kém, manh mún, phân tán, lạc hậu… qua từng bước phát triển sẽ ngày càng đạt tới trình độ cao hơn, phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa gắn với hợp tác hóa, mở rộng quy mô sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật và nâng cao năng suất lao động.
Chính vì sự phát triển lực lượng sản xuất như vậy, nên theo nguyên lý quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất thì từ sau thời nguyên thủy, quan hệ sở hữu đã và đang từng bước đi từ loại hình sở hữu tư nhân (tư hữu) sang loại hình sở hữu công cộng (công hữu), với các chế độ sở hữu thích hợp. (Hình 1)
Hình 1: Cơ sở lý luận của mô hình “Đầu tư công - Quản trị tư”
Nguồn: Tác giả
Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đất nước đi theo đúng quy luật đó khi xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước (đại diện cho chế độ công hữu) là chủ đạo, còn kinh tế tư nhân (đại diện cho chế độ tư hữu) là một động lực quan trọng nhất.
Đối với Việt Nam, phần lớn tư liệu sản xuất chủ yếu là tài sản công do Nhà nước đại diện sở hữu, do đó đầu tư công giữ vai trò trọng yếu trong phát triển nền tảng cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước. Như vậy, vấn đề đặt ra làm thế nào để Nhà nước quản lý hiệu quả các dự án đầu tư công.
Khi xét về vai trò của Nhà nước là bộ máy thuộc kiến trúc thượng tầng, thì chức năng chủ yếu sẽ là xây dựng và hoàn thiện thể chế để phát các huy tiềm năng vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Bộ máy có vai trò xã hội, quản lý vĩ mô lại phải gánh thêm chức năng quản lý các dự án đầu tư công thì sẽ trở nên quá tải và kém hiệu quả, không tương thích về chức năng.
Vì vậy, lời giải cho bài toán quản lý hiệu quả các dự án đầu tư công là phải kết hợp với cơ chế vận hành của thị trường, gắn với tính đổi mới sáng tạo và năng động của các chủ thể hoạt động trên thị trường. Do đó, gắn kết đầu tư công với quản trị tư là một giải pháp thích hợp về logic khoa học. Quản trị tư không có nghĩa là Nhà nước thoát ly vai trò chủ sở hữu tài sản công. Đó chỉ là sự tách bạch giữa chức năng quản lý nền kinh tế - xã hội vĩ mô của Nhà nước (thông qua thể chế) với chức năng quản trị hoạt động kinh tế.
Như vậy, phân tích từ cơ sở lý luận của Học thuyết Marx-Lenin về quan hệ sản xuất, có thể thấy trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mô hình “Đầu tư công - Quản trị tư” là sự hài hòa giữa quan hệ sở hữu với quan hệ quản lý trong thời kỳ quá độ, đồng thời kết nối được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước với vai trò của kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất.
3. Cơ sở thực tiễn của mô hình “Đầu tư công - Quản trị tư” dựa trên vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
3.1. Sự hạn chế của mô hình đầu tư công gắn với quản trị công sản bằng bộ máy hành chính
Thực tiễn của Việt Nam cũng như của các quốc gia trên thế giới cho thấy, đầu tư công có vai trò trọng yếu đối với sự phát triển khoa học công nghệ và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vì Nhà nước là bộ máy hành chính, nên việc hành chính hóa việc quản trị và khai thác tài sản công đã tạo nên sự kém hiệu quả và lãng phí.
Thứ nhất, hao tổn chi phí vận hành, bảo trì trong khi hiệu suất khai thác tài sản công lại không lớn, không đem về được doanh thu tương xứng, vì chủ yếu được sử dụng vào mục đích hành chính; từ đó tạo gánh nặng thêm cho ngân sách.
Thứ hai, các dự án đầu tư công và tài sản công được điều hành bằng tư duy hành chính, nên thiếu động lực, thiếu sáng tạo và thiếu gắn kết với nhu cầu xã hội; từ đó tạo nên sự lãng phí to lớn.
Thứ ba, đầu tư lớn nhưng không phát huy khai thác được rộng rãi, vì bị giới hạn bởi các quy định hành chính ngặt nghèo liên quan đến quản lý tài sản công. Do đó, tài sản mau xuống cấp, thậm chí nhiều di sản không được bảo tồn.
Vì phương phức quản trị đầu tư công còn nặng về hành chính, nên chậm xử lý hoặc xử lý không hiệu quả các vấn đề nảy sinh, chưa kịp thời rà soát, gây thất thoát, lãng phí, đồng thời ảnh hưởng đến các quy hoạch sử dụng đất. Cũng do phương thức quản trị đầu tư công phải liên quan đến nhiều cấp, nhiều cơ quan hành chính, nên không thể sâu sát với thực tế. Nhiều dự án không phát huy hiệu quả đầu tư hoặc không bảo đảm chất lượng, lãng phí, thất thoát. Tình trạng đó kéo dài qua nhiều năm mà chưa thể giải quyết triệt để (Hà Lan, 2022). (Bảng 1)
Bảng 1. Số lượng dự án chậm tiến độ và lãng phí giai đoạn 2016-2021

Nguồn: Báo cáo của Đoàn giám sát tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
3.2. Một số kinh nghiệm quốc tế về kết hợp với khu vực tư nhân trong đầu tư công
Những vấn đề Việt Nam đã gặp phải trong quản trị đầu tư công cũng là vấn đề nhiều quốc gia khác đã phải tìm cách giải quyết. Một trong những giải pháp hữu hiệu đó là áp dụng mô hình “Đầu tư công - Quản trị tư” đối với các dự án đem lại thiết chế văn hóa cho cộng đồng, như sân vận động, công viên, nhà hát, bảo tàng cho đến thư viện công… Phương châm cơ bản là Nhà nước kiến tạo, khu vực tư khai thác vận hành, có sự hài hòa lợi ích và chia sẻ rủi ro.
Từ thập niên 1990, chính phủ Anh đã triển khai chương trình Private Finance Initiative (PFI) cho phép khu vực tư nhân thiết kế, xây dựng, vận hành và bảo trì các công trình công cộng. Sau đó điều chỉnh thành mô hình PF2, với nguyên tắc cốt lõi là chia sẻ rủi ro công - tư rõ ràng hơn, tăng cường kiểm soát của Nhà nước, đặt hiệu quả phục vụ cộng đồng lên hàng đầu.
Chính phủ Hàn Quốc thiết lập mô hình PIMAC như một cơ quan quản lý tập trung về đầu tư công thuộc Bộ Tài chính. Tất cả dự án đầu tư công đều được PIMAC thẩm định, đánh giá khả năng hợp tác với tư nhân thông qua quy trình lựa chọn minh bạch và khung pháp lý chặt chẽ (Bùi Hoài Sơn, 2025).
Cách làm của Singapore về sự kết hợp với khu vực tư nhân trong đầu tư công là giao cho khu vực tư nhân vận hành các dự án đầu tư công, trên cơ sở hợp đồng thỏa thuận về trách nhiệm, các tiêu chuẩn phục vụ công khai, mức độ hài lòng của công chúng. Trường hợp đối tác tư nhân không đạt chỉ tiêu, hợp đồng sẽ bị chấm dứt. Nhà nước giữ quyền sở hữu tài sản công, còn người dân là đối tượng thụ hưởng lợi ích từ quả quản trị tư.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy điểm mấu chốt là chấp nhận rằng không nhất thiết Nhà nước trực tiếp quản trị thì mới bảo đảm lợi ích công. Quan trọng hơn, là cần thiết lập được khung pháp lý đủ mạnh để kiểm soát, buộc khu vực tư nhân hoạt động minh bạch, phục vụ mục tiêu xã hội, chứ không thuần túy lợi nhuận.
3.3. Sự phát triển kinh tế tư nhân tại Việt Nam, trở thành một động lực quan trọng nhất
Từ Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991), khi Đảng Cộng sản Việt Nam xác định mô hình nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (gọi là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN), thì khu vực kinh tế tư nhân ngày càng được nhìn nhận với vai trò quan trọng hơn.
Tính đến năm 2025, kinh tế tư nhân trong nước (chưa tính khu vực vốn đầu tư nước ngoài FDI) đã đóng góp hơn 50% GDP và khoảng 60% vốn đầu tư toàn xã hội (Thông tấn xã Việt Nam, 2025). Sự tham gia của kinh tế tư nhân vào các dự án công cộng cũng đã đem lại một số kết quả nhất định (ví dụ một số tuyến cao tốc BOT, một số tuyến đường đô thị…). Nghị quyết 68-NQ/TW đã xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất. Vì vậy, mô hình “Đầu tư công - Quản trị tư” là xu thế tất yếu, để phát huy thế mạnh về đổi mới sáng tạo, linh hoạt và gắn kết với nhu cầu xã hội. (Hình 2)
Hình 2: Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam
Nguồn: Bản tin Thông tấn xã Việt Nam/Vietnamplus ngày 19/3/2025
4. Một số khuyến nghị về mô hình “Đầu tư công - Quản trị tư”, gắn với vai trò của kinh tế tư nhân tại Việt Nam
4.1. Về định hướng chung
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn của Việt Nam cũng như kinh nghiệm quốc tế, có thể thấy muốn tạo đột phá phát triển cho kỷ nguyên mới, đã đến lúc cần đẩy mạnh mô hình "Đầu tư công - Quản trị tư". Tài sản công vẫn thuộc sở hữu nhà nước, nhưng việc quản lý, khai thác, vận hành thì nên mở rộng cho khu vực kinh tế tư nhân tham gia theo hình thức đấu thầu, cam kết trách nhiệm xã hội, giám sát minh bạch và có thời hạn. Những lĩnh vực có nhiều thuận lợi cho mô hình “Đầu tư công - Quản trị tư” gồm có:
- Lĩnh vực công nghiệp văn hóa, như: bảo tồn di sản vật thể và phi vật thể, thắng cảnh, không gian văn hóa,…
- Lĩnh vực khoa học công nghệ: là lĩnh vực được mở chủ trương chấp nhận rủi ro khi đầu tư công theo Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị, đồng thời là lĩnh vực cần tạo chuyển biến mạnh mẽ, với kết quả đột phá.
Lợi ích của mô hình “Đầu tư công - Quản trị tư” sẽ khắc phục nhược điểm của quản lý công, bởi thứ nhất, tiết kiệm ngân sách vì Nhà nước không phải chi thường xuyên cho vận hành, bảo trì; thứ hai, tăng hiệu quả dự án đầu tư công vì giảm thiểu thủ tục hành chính; thứ ba, bảo tồn tài sản công tốt hơn vì gắn kết tài sản công với nhu cầu xã hội, gắn trách nhiệm tài chính với trách nhiệm quản lý.
4.2. Về cơ chế kiểm soát
Để ngăn ngừa việc tư hữu các lợi ích từ đầu tư công, từ kinh nghiệm quốc tế cho thấy, mô hình “Đầu tư công - Quản trị tư” cần dựa trên thể chế kiểm soát đủ mạnh, bao gồm:
- Công khai thông tin đấu thầu và các cam kết của hợp đồng, trừ các bí mật công nghệ hợp pháp;
- Kiểm soát, ngăn ngừa tham nhũng chính sách bằng sự giám sát và phản ánh công khai của truyền thông và công chúng;
- Chuyển đổi số để theo dõi hiệu quả khai thác tài sản công, tạo nên hệ thống dữ liệu khách quan và được phân cấp truy xuất, giám sát.
Bên cạnh đó, để phát huy vai trò kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất gắn với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, cần tăng cường cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước để cùng liên kết trong mô hình “Đầu tư công - Quản trị tư”.
5. Kết luận
Để tạo nên chuyển biến đột phá cho kỷ nguyên mới của đất nước, cần phát huy mạnh mẽ hiệu quả đầu tư công. Mô hình “Đầu tư công - Quản trị tư” là giải pháp có cơ sở lý luận khoa học, cơ sở thực tiễn và có những bài học kinh nghiệm quốc tế.
Mô hình này cũng gắn liền với quan điểm chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, có triển vọng hiệu quả đối với các lĩnh vực công nghiệp văn hóa, phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Bên cạnh đó, vì mục tiêu phát triển bền vững, cần thể chế và chuyển đổi số mạnh mẽ để kiểm soát việc khu vực tư nhân khai thác tài sản công, đồng thời cần thúc đẩy sự tự chủ hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập với khu vực tư nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021). Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin, NXB Chính trị Quốc gia, ISBN: 9786045765883.
Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Bộ Chính trị (2025). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của về phát triển kinh tế tư nhân.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2015). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011).
Quốc hội (2022). Báo cáo của Đoàn giám sát tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV.
Thông tấn xã Việt Nam (2025). Khu vực kinh tế tư nhân hiện đóng góp khoảng 51% GDP, TTXVN/Vietnam+. Bản tin ngày 19/3/2025 infographics.vn
Hà Lan (2022). Lãng phí lớn trong sử dụng vốn đầu tư công. Truy cập tại https://daibieunhandan.vn/lang-phi-lon-trong-su-dung-von-dau-tu-cong-10296122.html
Bùi Hoài Sơn (2025). Đầu tư công - Quản trị tư: Gỡ nút thắt cho thiết chế công cộng. Truy cập tại https://daibieunhandan.vn/dau-tu-cong-quan-tri-tu-go-nut-that-cho-thiet-che-cong-cong-bai-cuoi-khong-the-bat-den-xanh-ma-khong-ke-duong-10374028.html.
“Public investment - Private governance”: A model to operationalize the private sector as a key driver of economic growth
Ngo Que Lan
Hanoi University of Science and Technology
Abstract:
The “Public Investment - Private Governance” model integrates theoretical foundations, practical insights, and international experiences to emphasize the pivotal role of the private sector as a key engine of economic growth. This approach underscores the necessity of robust institutional frameworks and digital transformation tools to ensure transparent and effective management of public assets when leveraged by private entities. Moreover, the model advocates for enhanced autonomy and strategic collaboration between state-owned enterprises, public service units, and private actors. By fostering coordinated linkages, this framework aims to maximize efficiency, innovation, and sustainable development in public-private partnerships.
Keywords: Marx-Lenin, semiconductor industry, human resources, training, economic development.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, số 21 tháng 6 năm 2025]