Hội thảo được tổ chức trực tiếp kết hợp trực tuyến tại Hà Nội. Tham dự Hội thảo có gần 300 đại biểu từ các Bộ, ngành Trung ương, các Hiệp hội, Hội ngành hàng sản xuất, thương mại, logistics, một số doanh nghiệp lớn trong từng ngành hàng và các cơ quan thông tấn báo chí.
Những năm gần đây, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 khiến thương mại toàn cầu và trong nước gặp nhiều khó khăn, bất ổn về kinh tế, chính trị. Chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy và đảo lộn, trong đó có các hoạt động logistics vốn được coi là “xương sống” của chuỗi cung ứng cũng bị ảnh hưởng mạnh mẽ.
Thực tế đó đã đặt ra yêu cầu cho các doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam cần đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực Logistics để vừa khắc phục được những vấn đề nảy sinh trong đợt dịch bệnh vừa qua, vừa có thể tận dụng được lợi thế hiện nay của cách mạng số và thành tựu Cách mạng Công nghiệp 4.0. Cuộc cách mạng này vừa đem lại những thách thức và cũng tạo cơ hội cho các doanh nghiệp chuyển đổi phương pháp tổ chức sản xuất truyền thống. Đây cũng là dịp để tất cả doanh nghiệp cùng khám phá, nắm bắt cơ hội và khẳng định vị thế của mình trên thị trường trong và ngoài nước.
Cụ thể, theo bảng xếp hạng của Agility 2022, thị trường logistics Việt Nam được xếp hạng thứ 11 trong nhóm 50 thị trường logistics mới nổi toàn cầu. Tỷ lệ tăng trưởng kép hằng năm (CAGR) giai đoạn 2022-2027 của thị trường logistics Việt Nam được dự báo đạt mức 5,5%. Việt Nam hiện là quốc gia đứng đầu trong các nước ASEAN về số lượng doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics được Cơ quan Quản lý hoạt động hàng hải Hoa Kỳ (FMC) cấp phép. Số lượng và chất lượng dịch vụ logistics được nâng cao, qua đó giúp xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ chiếm tỷ lệ ngày càng cao so với quy mô GDP, tăng từ 72,9% năm 2015 lên 93,3% năm 2021.
Việt Nam cũng là nước có xếp hạng ở tốp đầu trong các thị trường mới nổi. Tốc độ tăng trưởng ngành bình quân hàng năm từ 14-16%, số lượng và chất lượng dịch vụ logistics được nâng cao, đóng góp quan trọng trong việc đưa tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam năm 2022 lên 730,2 tỷ USD, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm 2021. Đây là kết quả đáng khích lệ trong bối cảnh thương mại toàn cầu và trong nước gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và những rủi ro, bất ổn về kinh tế, chính trị trên phạm vi toàn cầu.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Ông Phan Văn Chinh, Cục Trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết: “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, logistics là 1 trong 8 ngành cần được ưu tiên chuyển đổi số trước. Một trong những nhiệm vụ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025 theo Quyết định số 221/QĐ-TTg ngày 22/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ là ‘‘Nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ và tiến bộ kỹ thuật, đẩy mạnh chuyển đổi số trong dịch vụ logistics’’.
Là một trong những ngành then chốt, được ví như “mạch máu” của nền kinh tế quốc dân, logistics cần được đầu tư mạnh mẽ, đặc biệt trong khía cạnh “số hóa” để có thể đáp ứng, thích nghi với bối cảnh thị trường, hỗ trợ tối đa thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề khác, Cục Trưởng Cục Xuất nhập khẩu nhấn mạnh.
Trước áp lực của dịch bệnh Covid-19 cùng với sự bùng nổ của nền kinh tế số và thương mại điện tử, các doanh nghiệp logistics đã phần nào nhận thức được vấn đề đẩy nhanh chuyển đổi số và ứng dụng những thành tựu công nghệ vào hoạt động kinh doanh nhằm tăng cường hiệu quả kinh tế, cũng như tối ưu hóa trong các dây chuyền sản xuất, cung ứng sản phẩm.
"Trong bối cảnh khôi phục và phát triển dịch vụ logistics sau ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, hiện nay, một số doanh nghiệp lớn đã áp dụng thành công giải pháp công nghệ mang lại hiệu quả cho dịch vụ logistics, giảm đáng kể chi phí liên quan. Đây là những kết quả rất đáng khích lệ, tạo động lực để triển khai quyết liệt hơn nữa chuyển đổi số trong ngành." - ông Phan Văn Chinh nhấn mạnh.
Tại Hội thảo, đại diện cơ quan quản lý nhà nước, Hiệp hội, Hội ngành hàng và doanh nghiệp cùng với các chuyên gia, viện nghiên cứu đã trao đổi, rà soát, đánh giá và đưa ra những nhận định về tình hình chuyển đổi số ngành logistics hiện nay.
Về việc ứng dụng công nghệ và tự động hoá trong logistics để phát triển bền vững, đại diện Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn, ông Trương Tấn Lộc, Giám đốc Marketing chia sẻ, Tổng Công ty Tân cảng Sài Gòn đã và đang từng bước ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) vào công tác chăm sóc khách hàng và nâng cao trải nghiệm khách hàng. Trong tương lai, Tân Cảng Sài Gòn sẽ tích hợp thêm các công nghệ để thiết lập mô hình đa kênh (omni-channel) để đem đến cho khách hàng những trải nghiệm tốt nhất, xứng đáng với vai trò “sếu đầu đàn” trong ngành khai thác cảng và cung cấp dịch vụ logistics.
Trong thời đại công nghệ số, việc xây dựng nhà kho thông minh được coi là xu hướng tất yếu của logistics hiện đại. Về vấn đề này, ông Đinh Hoài Nam - Giám đốc phát triển Kinh doanh, Công ty SLP Việt Nam cho rằng, nhà kho hiện đại đang thay thế nhà kho truyền thống là điều tất yếu của sự phát triển ngành logistics, lý do cho sự thay đổi này là do nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, đòi hỏi thời gian vận chuyển ngắn hơn và chất lượng dịch vụ tốt hơn. Nhà kho hiện đại được trang bị các công nghệ tiên tiến như hệ thống tự động hóa và giám sát toàn diện, giúp cải thiện tốc độ và hiệu quả của quá trình vận chuyển.
"Doanh nghiệp logistics cũng cần xây dựng hệ sinh thái bền vững và toàn diện để nắm lấy cơ hội của TMĐT, đồng thời nâng cao trải nghiệm giao nhận hàng hóa từ mọi điểm chạm; Ứng dụng công nghệ và chuẩn hóa quy trình để tối ưu hiệu suất vận hành; Phát triển logistics xanh bền vững." - ông Nguyễn Triều Quang, Giám đốc Khối Vận hành miền Bắc, Lazada Việt Nam cho biết.
Từ hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp và những kinh nghiệm được rút ra, các đại biểu đã tích cực trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics thông qua định hướng về chuyển đổi số nhằm thúc đẩy xuất nhập khẩu, lưu thông hàng hoá. Đây cũng là một trong những cơ sở quan trọng để Bộ Công Thương cùng các bộ, ngành liên quan tiếp tục nghiên cứu, xây dựng Chiến lược phát triển dịch vụ logistics của Việt Nam đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2045.
Trong khuôn khổ Hội thảo cũng diễn ra Lễ công bố “Báo cáo Xuất nhập khẩu Việt Nam 2022”. Tiếp nối những kết quả đạt được từ Báo cáo Xuất nhập khẩu Việt Nam 2016, 2017, 2018, 2019, 2020, 2021. Năm 2022 là năm thứ 7 liên tiếp Bộ Công Thương biên soạn và xuất bản cuốn Báo cáo này.
Báo cáo Xuất nhập khẩu Việt Nam là tài liệu chính thức của Bộ Công Thương về tình hình xuất nhập khẩu của từng nhóm mặt hàng, thị trường, tình hình tận dụng các cơ hội từ FTA và công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu. Báo cáo Xuất nhập khẩu trong những năm qua đã cung cấp thông tin minh bạch, có hệ thống, được các cơ quan quản lý, doanh nghiệp, hiệp hội, tổ chức nghiên cứu và đào tạo quan tâm, tín nhiệm và đánh giá cao.
Báo cáo Xuất nhập khẩu 2022 có một số nội dung mới như: Thông tin về Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam đến năm 2030; Cập nhật về kết quả thực hiện các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tình hình gia nhập hiệp định CPTPP của một số nền kinh tế, tình hình phê chuẩn Hiệp định CPTPP; một số điểm mới trong triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại, hoạt động xuất nhập khẩu…
Theo báo cáo Xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2022, 10 tỉnh có kim ngạch xuất khẩu dẫn đầu cả nước năm 2022 lần lượt là: TP Hồ Chí Minh kim ngạch 47.545.537.771 USD; Bắc Ninh kim ngạch 45.062.954.539 USD; Bình Dương kim ngạch 34.332.291.545 USD; Thái Nguyên kim ngạch 29.880.822.193 USD; Hải Phòng kim ngạch 24.956.949.890 USD; Đồng Nai kim ngạch 24.600.045.278 USD; Bắc Giang kim ngạch 22.628.594.217 USD; Hà Nội kim ngạch 17.131.320.127 USD; Phú Thọ kim ngạch 11.800.308.391 USD; Hải Dương kim ngạch 10.461.101.116 USD;
10 tỉnh có kim ngạch xuất khẩu thấp nhất lần lượt là: Lai Châu kim ngạch 20.468.841 USD, Sơn La kim ngạch 21.801.054 USD, Bắc Cạn kim ngạch 33.466.825 USD, Điện Biên kim ngạch 42.686.980 USD, Ninh Thuận kim ngạch 46.223.574 USD, Cao Bằng kim ngạch 60.200.126 USD, Hà Giang kim ngạch 88.014.734 USD, Đắc Nông kim ngạch 111.800.984 USD, Tuyên Quang kim ngạch 137.569.864 USD, Quảng Bình kim ngạch 196.610.302 USD.