ĐỀ ÁN 112 - CHUYÊN CŨ NÓI MÃI CHƯA HẾT

Sơ lược về Đề án 112 Tháng 7/2001, Thủ tướng Chính Phủ ký quyết định số 112/2001/QĐ - TTg phê duyệt Đề án tin học quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2005 (gọi tắt là Đề án 112). Một đề án t

Hiện trạng

Tháng 12/2005, là thời gian dự kiến kết thúc Đề án, nhưng đến thời điểm hiện tại, các công việc mà Ban điều hành đề án thực hiện vẫn chưa được bao nhiêu. Việc xây dựng một trung tâm tích hợp dữ liệu, phần mềm dùng chung, hạ tầng viễn thông và đào tạo phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin hầu như không có. Trong khi đó, việc xây dựng hệ thống thông tin phục vụ quản lý cho các cơ quan quản lý nhà nước hiện nay mới bắt đầu triển khai ở mức ban hành tài liệu, hướng dẫn dự án...

Trung tâm tích hợp dữ liệu còn dang dở:

Mục tiêu cụ thể của đề án 112 là phải xây dựng Trung tâm tích hợp dữ liệu (TTTHDL) của cấp bộ và tỉnh trong năm 2002 – 2003, để thông qua trung tâm này, bộ chỉ đạo điều hành nghiệp vụ đến các sở, ban ngành, UBND cấp tỉnh, thành phố chỉ đạo xuống cấp quận, huyện. Thế nhưng, thực tế hiện nay là một số TTTHDL vẫn đang còn nằm trên giấy, số khác đang xây dựng trụ sở. Cá biệt có không ít nơi còn chưa có gì để mà “tích hợp”. Mục tiêu đặt ra là: “Tổ chức xây dựng và tích hợp các cơ sở dữ liệu quốc gia, trước hết là những bộ ngành trọng điểm như: Kế hoạch và Đầu tư, Thương mại, Hải quan, Lao động Thương binh và Xã hội, Tư pháp, Giáo dục và Đào tạo, Y tế..." Nhưng xem ra, mục tiêu này khó lòng thực hiện. Mặc dù theo dự đoán, TTTHDL sẽ phá vỡ thế cát cứ dữ liệu, trên bảo dưới không nghe (trên không biết chính xác dưới đang làm gì), nhưng điều mà mọi người đang chờ đợi chính là Trung tâm này sẽ làm thế nào, khi mà không có các cơ sở dữ liệu, thậm chí chuẩn hoá dữ liệu cũng đang còn nhiều tranh cãi!? Nguyên nhân tình trạng này là do đâu? GS. Đặng Hữu cảnh báo: "Những vấn đề đáng lẽ phải làm được, nhưng lại không thấy ai làm. Ví dụ như xây dựng trung tâm tích hợp dữ liệu để phục vụ quản lý nhà nước, nhưng lại không có các cơ sở dữ liệu thông tin để sử dụng. Đầu tư nhiều mà không hiệu quả, rất có thể sẽ làm mất lòng tin của lãnh đạo”. Còn Ông Phan Quang, thứ trưởng bộ KH&ĐT bức xúc: “Rất nhiều tỉnh không hình dung được Chính phủ sẽ đầu tư cái gì, địa phương đầu tư cái gì ở đề án 112”.

Phần mềm dùng chung giờ đến đâu?

Bộ máy hành chính nhà nước sẽ mạnh hơn nhiều, nếu các đơn vị hành chính cấp bộ, ngành và địa phương đều sử dụng chung một phần mềm phục vụ quản lý hành chính nhà nước, được gọi là phần mềm dùng chung (PMDC). Danh mục PMDC gồm 6 phân hệ điều hành tác nghiệp và 5 ứng dụng cung ứng dịch vụ công, được giao cho khoảng 30 đơn vị xây dựng, nhưng đến nay mới chỉ xong phần giải pháp khả thi của 3 phân hệ điều hành tác nghiệp. Còn ứng dụng CCNTT vào dịch vụ công như: đăng ký kinh doanh, đăng ký hộ tịch, nhân khẩu, chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng nhà ở... vẫn chưa thành hiện thực. Đã vậy, đơn vị tiếp nhận còn phải thuê tư vấn khảo sát và phân tích thiết kế, xây dựng phần mềm thử nghiệm, sau đó mới triển khai. Kinh phí triển khai được thực hiện theo công văn số 221/CV-BDDH112, về việc "Thông báo kinh phí cho phần mềm thử nghiệm thuộc Đề án 112 ban hành ngày 01/07/2004 của Ban điều hành (BĐH) 112 của Chính phủ". Theo đó, triển khai thử nghiệm phần mềm trên diện rộng có định mức 25 triệu đồng/điểm. Như vậy, tỉnh, thành phố nào có trên 30 diểm thì kinh phí lên khoảng một tỷ dồng, quả là một con số không nhỏ. Tuy nhiên, thực chất những ngành tham gia vận hành PMDC của địa phương được đếm trên đầu ngón tay. Thậm chí, một số địa phương như Bình Dương chỉ thực hiện nửa chừng, tức là chỉ được 2 phân hệ, còn hệ thống thông tin tổng hợp kinh tế xã hội thì “hãy đợi đấy”.

Hạ tầng viễn thông cho 112 còn hạn chế

Tổng hợp của Ban chỉ đạo quốc gia về CNTT mới đây cho thấy, việc xây dựng hạ tầng thông tin cho các mạng cục bộ (mạng Lan) còn hạn chế. Hầu hết các mạng của các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố từ khi ra đời đến nay chỉ kết nối với CPNet (mạng của Chính phủ ) qua đường truyền ADSL. Hiện tại, chỉ có khoảng 30 đơn vị được giao xây dựng phần mềm dùng chung, nhưng các đơn vị này mới chỉ hoàn thành giai đoạn I, tức là lập xong dự án khả thi. Mặt khác, do sử dụng đường truyền tốc độ thấp, nên hệ thống thông tin ở các bộ, ngành và địa phương chủ yếu phục vụ cho việc trao đổi thông tin nội bộ, mà phần lớn là thông tin điều hành tác nghiệp, quản lý công văn, lịch công tác, báo cáo nhanh... Theo một chuyên gia, ngành viễn thông nước ta đủ sức cung cấp đường truyền và các dịch vụ truyền dữ liệu băng rộng cho đề án 112. Thế nhưng, chuyên viên tin học tại các TTTHDL cho rằng, thuê kênh riêng (leased line) để làm gì, khi... chưa có gì để truyền và xử lý!? Ông Nguyễn Hữu Hiền - Giám đốc Trung tâm Công nghệ phần mềm TP Hồ Chí Minh cũng chung nhận xét: "Dẫu có đường rộng và xe tốt, vận hành thông suốt với tốc độ cao, thì vẫn chưa đủ vì xe không thể chạy khi không có gì để chở".

Nguồn nhân lực công nghệ thông tin yếu kém:

Việc xây dựng Đề án tin học quản lý hành chính nhằm hình thành một Nhà nước với những thông tin mang tính điện tử, toàn dân có thể sử dụng một cách hiệu quả nhất. Muốn vậy, người dân và đặc biệt là những chuyên viên trong bộ máy hành chính nhà nước cần có sự thông thạo về tin học, để chuyển tải những tài liệu cần thiết đền với người dân. Khảo sát tại UBND thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, chỉ có khoảng dưới 50% chuyên viên sử dụng thường xuyên và thành thạo máy vi tính; Số còn lại ít sử dụng máy vi tính hoặc không biết soạn thảo văn bản trên máy tính, cũng như không có khái niệm truy tìm thông tin mạng. Đây quả thực là một thực tế đáng buồn, mà chúng ta dù không muốn cũng phải nói ra. Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước cần phải quy định trình độ tin học hoá tối thiểu đối với chuyên viên, để làm cơ sở tuyển chọn hoặc đào tạo. Bên cạnh đó, cũng nên định kỳ tổ chức bồi dưỡng tin học cho người sử dụng và có nhận xét, đánh giá ngay sau đó...

Đánh giá sơ bộ:

Nhìn chung, công tác chuẩn hoá thông tin của các bộ, ngành vẫn gần như "dậm chân tại chỗ". Cơ sở dữ liệu không đồng nhất, phân tán và thiếu liên thông đã hạn chế việc trao đổi dữ liệu ở diện rộng. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia có thể nói, đang tiến triển theo tốc độ... "rùa bò". Báo cáo mới nhất của UNPAN - mạng lưới  trực tuyến về hành chính công và tài chính của Liên hợp Quốc, công bố tháng 2/2005 cho thấy, chỉ số Chính phủ điện tử của Việt Nam trong năm 2004 là 0,338 - xếp thứ 112 trong tổng số 191 nước, thấp hơn điểm số trung bình (0,413) của 191 nước. Việc xây dựng Chính phủ điện tử ở Việt Nam  như vậy là quá chậm, thậm chí còn tụt 15 bậc so với thứ hạng 97 được xếp năm 2003. Mặc dù có nhiều sự lý giải khác nhau về vấn đề tụt hạng này, nhưng lý do chính, theo ông Vũ Đình Thuần - Trưởng ban Điều hành đề án: "Đề án còn nhiều khó khăn. Một là hệ thống hạ tầng thông tin rất yếu kém. Hai là trình độ ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước còn "sơ khai". Ba là, hệ thống văn bản trong lĩnh vực CNTT và ứng dụng CNTT của các cơ quan hành chính nhà nước còn thiếu. Việc đầu tư cơ sở hạ tầng và ứng dụng CNTT áp dụng theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý  đầu tư  và xây dựng cơ bản vẫn chưa phù hợp". Ông Thuần còn cho biết thêm: "Chúng tôi đã đầu tư hàng tỷ đồng theo quy định tại Nghị định 52/1999/NĐ-CP của Chính phủ để khắc phục những khó khăn nói trên. Nhưng trên thực tế, việc áp dụng Nghị định 52 đối với ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước gặp nhiều khó khăn hơn so với một số lĩnh vực khác. Cụ thể là, từ năm 2002 - 2004, Đề án 112 chỉ sử dụng được 80 tỷ đồng vốn đầu tư và dự kiến năm 2005 cũng chỉ giải ngân được 20 tỷ đồng. Như vậy, cả giai đoạn 2001 - 2005 chỉ thực hiện đầu tư được 100 tỷ đồng, đạt tỷ lệ nhỏ so với con số 1000 tỷ đồng vốn đầu tư phải thực hiện đến năm 2015 ".

Như vậy, kết quả 4 năm qua của Đề án 112 là minh chứng sống động nhất cho việc ứng dụng CNTT để phục vụ cho cải cách hành chính, khi mà nguồn nhân lực CNTT chưa đủ mạnh, việc cải cách hành chính chưa xong. Với những tổng kết này, mong rằng Đề án 112 sẽ tìm ra cách làm thích hợp nhất trong giai đoạn cuối, để công cuộc cải cách hoạt động hành chính thực sự diễn ra trên diện rộng.

Cuối cùng, nhắc lại điều này có lẽ không thừa: Các nhà lãnh đạo cần nhận thức rõ, CNTT và truyền thông chỉ là một phần - tuy rằng rất quan trọng - của mọi mong muốn tin học hoá, vì CNTT và viễn thông chỉ phát huy tác dụng khi phối hợp nhịp nhàng với các nhân tố khác như quản lý, hoạch định, cải cách hành chính, đào tạo.../.

  • Tags: