Định hướng chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam có trọng tâm, trọng điểm

Bên cạnh những kết quả khả quan trong những năm gần đây, ngành cơ khí trong nước cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là về thị phần tại thị trường trong nước cũng như quốc tế còn chưa cao.

Liên quan đến ý kiến này, TS. Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí chia sẻ, thời gian vừa qua, Đảng và Chính phủ cũng luôn quan tâm hỗ trợ và đề ra các giải pháp để mở rộng thị trường cho các sản phẩm cơ khí. Có thể kể đến một số cơ chế, chính sách như sau:

Gần đây nhất là Nghị quyết 29 của Trung ương về việc tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, trong đó đề ra các nhóm giải pháp, cũng như đề ra 6 nhóm công nghiệp nền tảng mà chúng ta phải tập trung phát triển trong thời gian tới và tôi cho rằng đây là một văn bản rất quan trọng để triển khai những công việc khác.

TS. Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí, Bộ Công Thương
TS. Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí, Bộ Công Thương

Ngoài ra, Quyết định 319 về chiến lược phát triển của ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến 2035. Theo đó, quy định rất cụ thể các cơ chế chính sách cũng như là các sản phẩm cơ khí trọng điểm để đầu tư phát triển sản xuất trong thời gian tới và tôi cho rằng các doanh nghiệp cơ khí căn cứ vào các sản phẩm cơ khí trọng điểm này để mình đầu tư theo định hướng, sản xuất ra những sản phẩm mà trong nước đang cần trong thời gian tới. Đây là một chiến lược cũng rất quan trọng.

Hay là Quyết định 1791 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế thí điểm thiết kế, chế tạo trong nước, các thiết bị nhà máy nhiệt điện đến năm 2025 thì đến thời điểm hiện tại các doanh nghiệp cơ khí trong nước đã làm tự chủ hoàn toàn trong việc thực hiện thiết kế, chế tạo khoảng ít nhất là 7 hạng mục thiết bị BOP cho các nhà máy nhiệt điện, trong đó có hệ thống cung cấp than, hệ thống thải tro xỉ, hệ thống lọc bụi tĩnh điện, hệ thống phòng cháy chữa cháy nước, làm mát tuần hoàn, trạm phân phối và gắn với trạm biến áp chính rồi là hệ thống ống khói. Hệ thống này trong nhà máy nhiệt điện chiếm khoảng 25-30% giá trị của thiết bị đầu tư của 1 dự án nhiệt điện.

Một dự án nhiệt điện 1.200 MW đầu tư khoảng 1,6-1,7 tỷ USD cho thiết bị thì 30% là cả một vấn đề lớn mà các doanh nghiệp tại thị trường trong nước hoàn toàn có thể làm được, mà các hạng mục sản phẩm này từ trước đến nay hầu hết đều là các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện.

Như vừa rồi các vị khách mời đã nêu, quan trọng nhất vẫn là khâu thiết kế, khâu thiết kế và khâu khâu công nghệ là chúng ta phải nắm được, thì từ khâu thiết kế, khâu công nghệ nắm được thì chính là sự hỗ trợ của nhà nước trong mua thiết kế và công nghệ cho dự án đầu tiên. Tôi cho rằng đây là một chính sách rất quan trọng.

Hay là trong lĩnh vực thủy điện, từ Quyết định 797/400, Nhà nước cũng đã hỗ trợ để mua công nghệ cho phần thiết bị cơ khí thủy công cho dự án đầu tiên là dự án thủy điện A Vương mà tôi nhớ thời điểm đó hình như Nhà nước chỉ hỗ trợ có 152.000 USD, mà 152.000 USD thời điểm đấy chúng ta mua được toàn bộ phần thiết kế kỹ thuật và công nghệ của phần thiết bị cơ khí thuỷ công và đến thời điểm này thì các doanh nghiệp cơ khí trong nước đã làm được khoảng hơn 40 dự án thủy điện vừa và lớn trong nước, trong đó có dự án thủy điện Lai Châu là 1.200 MW, Sơn la 2.400 MW. Giá thành tại thời điểm này so với thời điểm chúng ta nhập khẩu trước đây thì đã giảm ít nhất 30% so trước đây và đặc biệt là khi mà chúng ta đã tự chủ trong vấn đề thiết kế của các thiết bị này thì chúng ta sẽ tự chủ trong vấn đề sửa chữa, bảo dưỡng và đặc biệt đấy cũng chính là an ninh năng lượng nếu như chúng ta tự chủ được chế tạo các thiết bị cho các nhà máy điện.

Hay là đối với ngành vật liệu xây dựng, Thủ tướng đã có văn bản 1266 về phát triển các thiết bị nhiệt dư cho các nhà máy xi măng, đến thời điểm này tôi cho rằng các doanh cơ khí trong nước cũng đã vận dụng cơ chế, chính sách này để thực hiện. Ví dụ như Viện Cơ khí bây giờ đang thực hiện 3 hệ thống cho xi măng Hoàng Mai phối hợp với nhà thầu nước ngoài, để chuyển giao công nghệ. Xi măng Hoàng Mai, xi măng Bỉm Sơn và xi măng Hoàng Thành rất hiệu quả.

Hay là trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ thì Quyết định 68 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2025 thì quy định rất cụ thể các cơ chế, các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. Từ quyết định này thì nhiều doanh nghiệp sản xuất thiết bị phụ trợ về cơ khí đã đầu tư và thành công. Đơn cử như lĩnh vực ô tô, xe máy mà tôi đã nói trước đó, các chính sách về phát triển cơ khí trong một số lĩnh vực thì đã thực sự mang lại hiệu quả kinh tế cao và thực sự tạo cầu nối và tạo sự lan tỏa trong quá trình phát triển các sản phẩm cơ khí trong nước.

Tuy nhiên, trong quá trình hấp thụ những chính sách hỗ trợ, TS. Phan Đăng Phong cũng cho rằng, các doanh nghiệp cơ khí từ các cơ chế chính sách, từ các thị trường thì các doanh nghiệp cơ khí cũng từ nội tại của mình phát triển, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ và đã cố gắng để làm sao làm chủ được công nghệ, đặc biệt là những công nghệ nền, là công nghệ thiết kế để làm sao sản phẩm của mình là những sản phẩm bền vững.

Trong quá trình áp dụng cơ chế chính sách ban hành thì đúng là vẫn còn những điểm nghẽn trong cơ chế chính sách mà chúng ta cũng cần phải xem xét. Ví dụ như việc xây dựng các mục tiêu trong các chiến lược, trong các quy hoạch, trong các chính sách thì còn thiên cao, chưa bám sát vào thực tế. Một số mục tiêu chưa cụ thể, dẫn đến khi chúng ta tổng kết, đánh giá thì không có định lượng cụ thể được.

Hay là một số cơ chế chính sách ưu đãi về tài chính, về đầu tư hoặc về thuế quan thì rất hợp lý và tốt cho các doanh nghiệp cơ khí. Tuy nhiên khi mà ứng dụng ý thì thực sự còn nhiều vướng mắc, thậm chí chậm và có độ trễ dẫn đến các doanh nghiệp rất khó để ứng dụng. Một số cơ chế, chính sách mà đưa ra thì còn tương đối là ngặt nghèo và chưa thực sự phù hợp và doanh nghiệp rất khó tiếp cận.

Do vậy, theo tôi, chúng ta cần phải có đánh giá, sơ kết chính sách phát triển cơ khí trong thời gian vừa qua, từ đó có những hiệu chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới, đặc biệt vừa rồi chúng ta đã thông qua Luật Điện lực (sửa đổi), trong đó quy định rất nhiều cơ chế, chính sách để phát triển các thiết bị cơ khí điện trong thời gian tới và nếu trong quá trình sơ kết, đánh giá, tổng kết chúng ta đưa ra bổ sung được một số cơ chế, chính sách để phù hợp thì tôi cho rằng thời gian tới các doanh nghiệp cơ khí có sẽ có nhiều cơ hội để phát triển hơn nữa trong lĩnh vực của mình.