Định hướng hoạt động và phát triển của các viện R&D khi chuyển đổi thành DN KH-CN

Thời kỳ bao cấp: Viện R&D được hình thành và phát triển với những đặc điểm sau: - Hầu hết các viện R&D do Nhà nước thành lập với chức năng khoa học công nghệ được quy định. Cơ sở vật chất kỹ thuật b

 

- Nội dung đề tài R&D thường có nguồn gốc từ quy hoạch phát triển ngành kinh tế, nhu cầu hợp tác quốc tế, nhu cầu học thuật, sở trường chuyên môn của người nghiên cứu, ý tưởng của người lãnh đạo, nhu cầu tồn tại và phát triển viện R&D; những đề tài có nguồn gốc từ nhu cầu của sản xuất và đời sống còn chưa đáng kể...

- Sản phẩm R&D được báo cáo hoặc xét duyệt trong các hội nghị khoa học, sau đó được giao nộp lên cấp trên hoặc ghi nhận hoàn thành kế hoạch tại cơ quan giao nhiệm vụ là các Bộ chủ quản. Viện R&D thường ít quan tâm và ít bị ràng buộc trách nhiệm trong bước tiếp theo là ứng dụng những kết quả R&D vào sản xuất.

Thời kỳ chuyển đổi cơ chế:

Đặc điểm cơ bản trong giai đoạn này là các viện R&D từng bước thích ứng với những điều kiện của cơ chế thị trường đang hình thành:

- Nói chung, phần lớn các viện R&D đã chuyển dần từ hoạt động “theo chức năng” sang hoạt động “theo nhu cầu”. Đồng thời tự điều chỉnh, khắc phục dần khoảng cách giữa những khả năng thực tế của viện R&D với những nhu cầu thực tế của sự phát triển KT-XH trong phạm vi tiếp cận thuận lợi nhất. Viện R&D đã từng bước tập trung hoạt động của mình vào những mục tiêu thiết thực, bao gồm những mục tiêu trong chức năng và những mục tiêu ngoài chức năng.

Trên cơ sở đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước, các viện R&D đã được mở rộng quyền tự chủ khoa học - kinh tế trong hoạt động của mình. Nội dung tự chủ được mở rộng, viện có quyền ký hợp đồng công việc và hợp đồng lao động; quyền tự chủ về kế hoạch hoạt động R&D và tự chủ về tài chính; quyền chủ động hợp tác với các cơ quan khoa học, sản xuất, kinh doanh; quyền làm dịch vụ tư vấn khoa học, thiết kế và trực tiếp tham gia sản xuất kinh doanh; quyền phân phối lợi nhuận...

- Cơ chế thị trường tác động làm cho các viện R&D dần dần đổi mới và hoạt động R&D đã trở thành phong phú hơn, hiện thực hơn nhưng cũng khắt khe hơn. Tuy chưa hình thành rõ rệt thị trường khoa học - công nghệ, nhưng đã có nhiều giải pháp linh hoạt trong quan hệ cung - cầu, cạnh tranh. Mối quan hệ cung - cầu, cạnh tranh này đã chi phối trở lại hoạt động của các viện R&D ngày một rõ rệt hơn.

- Nguồn tài chính của các viện R&D được mở rộng. Ngoài vốn cấp phát từ ngân sách, viện R&D có thể sử dụng các nguồn vốn hợp đồng, nguồn vốn tự có, nguồn vốn viện trợ nước ngoài... cho nhiều mặt hoạt động R&D của mình. Các khả năng và các hình thức thanh toán cũng được đa dạng hoá theo hướng linh hoạt và dần dần được hợp lý hoá.

- Môi trường hợp tác quốc tế cũng được mở rộng cho các viện R&D. Ngoài mối quan hệ truyền thống với Liên Xô và các nước XHCN (cũ), đã có điều kiện cho các viện R&D xây dựng các mối quan hệ hợp tác khoa học với một số nước phương Tây, các nước trong khu vực, các tổ chức chuyên môn của LHQ, các nhà khoa học nước ngoài...

- Từ những đổi mới trong hoạt động KT-XH nói chung và những đổi mới trong hoạt động R&D nói riêng, cho tới nay, có thể nhận định, những khả năng phát triển trong thời gian tới của các viện R&D như sau:

+ Cùng với sự phát triển của KT-XH, thị trường khoa học - công nghệ sẽ phát triển dần về quy mô và hoàn chỉnh về hình thức trong hệ thống thị trường chung.

+ Có thể sẽ có sự thay đổi về hình thức sở hữu và xã hội hoá nguồn kinh phí cho hoạt động của viện R&D, nhưng chủ yếu vẫn thuộc Nhà nước quản lý với nguồn kinh phí bao cấp dần dần hạn chế và tiến tới xoá bỏ hoàn toàn. Lúc đó, các viện R&D phải tự điều chỉnh hoạt động của mình để thích ứng với thị trường. Sự điều chỉnh này được các viện R&D thực hiện với tư cách là một chủ thể khoa học – kinh tế và đồng thời với tư cách là một đơn vị trong hệ thống hoạt động R&D toàn xã hội.

+ Các mối quan hệ giữa viện R&D với các chủ thể khác trong nền kinh tế thị trường sẽ được thể hiện chủ yếu thông qua thị trường. Thị trường sẽ tác động làm năng động hoá và đa dạng các mối quan hệ này.

- Nói chung, phần lớn các viện R&D hiện nay phải thay đổi để phát triển một cách thực chất hơn và có hiệu quả hơn. Khi Nhà nước xoá bỏ hoàn toàn bao cấp, cơ chế thị trường có thể làm cho một số viện R&D phải tổ chức lại theo mô hình doanh nghiệp KH - CN thích ứng hoặc phải tự chấm dứt hoạt động.

- Vai trò của Nhà nước được thể hiện bằng hình thức điều tiết vĩ mô, theo các quy định, luật, nghị định... để khuyến khích cho sự phát triển KH&CN ở mức tối đa và Nhà nước phải đầu tư vào những lĩnh vực có tầm chiến lược quốc gia, mà chỉ Nhà nước mới đủ khả năng đâu tư, quản lý như quốc phòng, an ninh, vũ trụ, biển, năng lượng, dầu khí và các công trình công cộng khác... Lúc này, Nhà nước, ngoài vai trò điều tiết của mình còn là một khách hàng lớn đặt hàng cho các viện R&D thông qua đấu thầu theo quy luật thị trường.

Đối với hoạt động tư vấn - thiết kế:

Bắt đầu tư 1996 trở lại đây, xu hướng chung của khách hàng là đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng dịch vụ tư vấn trong nước, thị trường các dịch vụ thuần tuý “thủ tục” đang mất dần. Bên cạnh những điểm mạnh truyền thống thuộc về tư chất, tiềm năng (thông minh, hiếu học, cần cù...) đội ngũ chuyên gia Việt Nam đã bộc lộ nhiều yếu kém khi phải đối mặt với yêu cầu mới. Hiện nay, đội ngũ CB KHCN của Việt Nam có độ tuổi trung bình đã khá cao, các kinh nghiệm thu được đến nay đã lỗi thời, yếu kiến thức quản trị kinh doanh/Marketing, thiếu thông tin về công nghệ mới của các nước tiên tiến, yếu về ngoại ngữ (Tiếng Anh), không có điều kiện cập nhật các khái niệm, cách tiếp cận hoặc kỹ năng mới. Trong 1-2 năm tới sẽ là giai đoạn thử thách, sàng lọc khắc nghiệt đối với hoạt động tư vấn Việt Nam. Tình hình này đòi hỏi các viện R&D, các công ty tư vấn phải đổi mới, phát triển để vươn ra nắm bắt công việc. Mặt khác, Nhà nước cũng phải có những giải pháp cơ bản để hỗ trợ ngành tư vấn phát triển lành mạnh, đất nước có một ngành dịch vụ tư vấn đủ mạnh tương xứng với tiềm năng to lớn của đội ngũ trí thức Việt Nam.

Các hình thức tư vấn chủ yếu mà các viện R&D thường làm trong thời gian qua gồm:

- Lập quy hoạch ngành.

- Điều tra, khảo sát địa hình, lựa chọn địa điểm xây dựng.

- Lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi công trình.

- Thiết kế (thiết kế kỹ thuật, thiết kế thi công, thiết kế kiến trúc, thiết kế chế tạo thiết bị ) thẩm định dự án công trình, lập dự toán và tổng dự toán công trình, lập hồ sơ mời thầu...

- Quản lý dự án, giám sát thi công, kiểm định chất lượng.

- Chế tạo thiết bị, hướng dẫn lắp đặt chìa khoá trao tay một số công trình có vốn đầu tư không lớn và mức độ phức tạp công nghệ không cao.

- Đào tạo công nhân vận hành và chuyển giao công nghệ.

Điểm mạnh của các viện R&D làm công tác tư vấn đó là:

- Các viện R&D có đội ngũ trí thức được đào tạo tốt trong và ngoài nước và đã có quá trình công tác thiết kế các công trình, dự án trong nước. Nhiều cán bộ KH&CN có trình độ tham gia thẩm định các dự án của nước ngoài.

- Với những công trình đòi hỏi công nghệ không quá hiện đại thì tư vấn của các viện R&D làm tốt hơn tư vấn nước ngoài, bởi nhiều lý do như điều tra khảo sát được kỹ hơn, hồ sơ chi tiết hơn và giá thành tư vấn rẻ hơn nhiều lần.

- Nếu tư vấn trong nước được làm liên doanh hoặc làm thầu phụ với các chuyên gia tư vấn nước ngoài, thì chuyên gia tư vấn của Việt Nam học hỏi rất nhanh. Do vậy, từ công trình thứ 2 hoặc thứ 3 trở đi là chúng ta có thể tự làm được hầu hết.

Điểm yếu của các viện R&D làm công tác tư vấn:

- Quy mô và trình độ, năng lực tư vấn rất không đồng đều giữa các đơn vị, yếu về xử lý các vấn đề xã hội học, phân tích tài chính - kinh tế dự án.

- Nhiều trường hợp liên doanh, liên kết với nước ngoài chỉ để làm nhà thầu phụ với từng công việc nhỏ bé, đơn giản hoặc chỉ cho thuê từng chuyên gia cụ thể.

- Trang thiết bị khảo sát và lựa chọn thiết bị, công nghệ còn yếu, đặc biệt là các thiết kế mẫu, các tiêu chuẩn của Tây Âu và Bắc Mỹ còn thiếu.

Đối với nghiên cứu công nghệ mới và chuyển giao:

Trong nhiều năm qua, mặc dù khó khăn về nhiều mặt,... nhưng đội ngũ cán bộ KH&CN đông đảo nước ta đã có rất nhiều đóng góp cho sự phát triển KT-XH của đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, trong điều kiện của cơ chế thị trường, “chất xám” đang dần trở thành hàng hoá thì đội ngũ cán bộ này hoàn toàn có thể phát huy được khả năng nghiên cứu để tìm ra những giải pháp công nghệ hoặc phát triển những công nghệ nhập, đáp ứng nhu cầu thị trường chuyển giao công nghệ đang dần hình thành và phát triển trong nước và khu vực.

Về cơ sở vật chất kỹ thuật: (Labô và xưởng pilôt) trong các viện R&D đã có các phòng thí nghiệm và các xưởng pilôt theo các chuyên ngành sâu. Những cơ sở vật chất kỹ thuật này còn lạc hậu, chưa đồng bộ. Mặc dù vậy, một số viện R&D đã hoạt động nghiên cứu ứng dụng, triển khai thực nghiệm và đã đạt được những kết quả khả quan. Một số công nghệ đã được chuyển giao áp dụng cho sản xuất, kinh doanh và đã đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian qua. Như vậy, nếu được đầu tư trang thiết bị nghiên cứu hiện đại hơn, có các xưởng thực nghiệm đồng bộ thì các viện R&D sẽ đảm nhận được chức năng nghiên cứu và triển khai của mình, thật sự là nơi ươm tạo công nghệ mới, để có thể vươn tới thị trường chuyển giao công nghệ và sẽ sống được bằng thị trường công nghệ.

Về nguồn kinh phí: các viện R&D hiện nay hoạt động bằng nhiều nguồn kinh phí khác nhau - đa dạng hoá nguồn tài chính: Vốn Ngân sách cấp, kinh phí hợp đồng tư vấn, hợp đồng R&D, vốn liên doanh, liên kết... do đó các viện R&D có nhiều khả năng để đầu tư nâng cấp các phòng thí nghiệm, các xưởng thực nghiệm với quy mô và trình độ thiết bị ngày càng hiện đại hơn.

Nhu cầu thị trường hiện nay đang phát triển bởi vì các doanh nghiệp đã nhận thức được rằng, chỉ có đổi mới công nghệ thì mới có thể tồn tại trong thị trường cạnh tranh khắc nghiệt về chất lượng sản phẩm, giá cả. Mặt khác, môi trường kinh tế, xã hội, chính trị, pháp luật đang rất thuận lợi cho sự phát triển KH&CN nói chung và ươm tạo chuyển giao công nghệ mới nói riêng. Các viện R&D cần phải nắm được thời cơ này để vươn tới thị trường chuyển giao công nghệ.

Như vậy, nhiều viện R&D hoàn toàn có những tiền đề khả năng phát triển và sẽ trở thành nơi ươm tạo công nghệ mới chuyển giao cho sản xuất kinh doanh.

Các bước phát triển viện R&D

Bước 1: Đổi mới lấy đà (2-5 năm)

Đây là giai đoạn chuyển đổi căn bản về nhận thức xã hội đối với hoạt động R&D. Đó là các hoạt động R&D phải nuôi sống được chính các viện R&D, sống bằng sản phẩm R&D đáp ứng được yêu cầu của thị trường.

Hình thành các yếu tố, cơ sở cần thiết để tư vấn trở thành một nghề chuyên môn - mang tính chuyên nghiệp của tư vấn.

Cần đổi mới cơ cấu tổ chức và điều hành viện R&D phù hợp với cơ chế thị trường.

Đầu tư bổ sung trang thiết bị cần thiết, hợp lý, xây dựng sửa chữa các phòng nghiên cứu thực nghiệm và xưởng thực nghiệm khoa học khang trang hơn.

Tham gia lựa chọn và thẩm định các công nghệ nhập từ nước ngoài.

Nghiên cứu ứng dụng và triển khai thực nghiệm tạo ra một số công nghệ chuyên ngành, đổi mới và phát triển một số sản phẩm công nghệ nhập vốn đầu tư không lớn để tạo ra sản phẩm mới có chất lượng và giá thành cạnh tranh.

Tuyển chọn, đào tạo cán bộ bổ sung cho nghiên cứu và tham gia với tư vấn nước ngoài để học hỏi.

Bước 2: Vươn ra thị trường (5-10 năm)

Các viện R&D đã có đội ngũ nắm vững công nghệ tư vấn tiên tiến thông qua đào tạo, học hỏi, chuyển giao công nghệ và làm thầu phụ.

Giai đoạn này, các viện R&D có thể nhận tổng thầu tư vấn 50-60% và chỉ chấp nhận làm thầu phụ 40-50% cho tư vấn nước ngoài trong các dự án có quy mô lớn.

Tiến hành nghiên cứu và phát triển công nghệ nhập theo yêu cầu của thị trường đối với những công nghệ độ phức tạp trung bình, vốn đầu tư không lớn.

Nghiên cứu ứng dụng và tạo ra những công nghệ thuộc chuyên ngành mà không cần nhập từ nước ngoài.

Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo được một số máy móc thiết bị đạt tiêu chuẩn trên trung bình, tiên tiến trong khu vực.

Hợp tác với các chuyên gia nước ngoài để nâng cao hơn nữa về hoạt động tư vấn, nghiên cứu và triển khai.

Chuyển giao công nghệ cho các đơn vị SX-KD, tăng doanh thu về bán công nghệ trong nước. Tỷ lệ chuyển giao công nghệ trong nước chiếm 40-50% (hiện này là ~ 30%).

Bước 3: Chiếm lĩnh thị trường và phát triển (10-15 năm)

Về trình độ tư vấn phải đạt tiên tiến trong khu vực, phải đảm nhận tổng thầu hầu hết các dự án tư vấn trong nước và tham gia đấu thầu tư vấn ngoài nước.

Nghiên cứu và phát triển công nghệ có độ phức tạp với vốn đầu tư tương đối lớn.

Khả năng của chuyên gia làm việc bình đẳng với các chuyên gia trong khu vực.

Ươm tạo nhiều công nghệ mới đáp ứng nhanh chóng cho thị trường.

Tỷ lệ chuyển giao công nghệ trong nước tăng lên 60-70%, tiến tới xuất khẩu công nghệ ra nước ngoài.

Nhiều dây chuyền thiết bị có thể chế tạo trong nước đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, tỷ lệ này chiếm ~ 70%.

Phấn đấu đến năm 2020, nước ta là nước xuất khẩu công nghệ, thiết bị và có nhiều chuyên gia đầu ngành trên thế giới trong các lĩnh vực KH&CN.
  • Tags: