1. Bức tranh toàn cảnh Nhà máy
Ngày 08/02/2002, tại Quyết định số 140/QĐ - TTg, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định đầu tư Dự án Nhà máy Xi măng Thái Nguyên, do TCty Xây dựng Công nghiệp Việt Nam (Bộ Công nghiệp) làm chủ đầu tư. Nhà máy đặt tại thôn Đông Thu, xã Quang Sơn, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, với diện tích đất sử dụng là 40,8 ha. Công suất thiết kế là 4.000 tấn clinker/ngày, tương đương 1,51 vạn tấn xi măng/năm. Xi măng được sản xuất bằng lò quay, theo phương pháp khô, thiết bị công nghệ thuộc loại tiên tiến trên thế giới. Tổng mức đầu tư của Dự án là 2.775 tỷ đồng, tương đương 185 triệu USD. Điều đặc biệt của Dự án này là tỷ lệ thiết bị sản xuất trong nước chiếm tới 65,7% (khoảng 10.500 tấn), là dự án có tỷ lệ nội địa hoá cao nhất, có suất đầu tư thấp nhất so với các dự án có cùng quy mô và là dự án xi măng cuối cùng của nước ta được hưởng ưu đãi đầu tư từ nguồn vay của Quỹ Hỗ trợ phát triển trung ương. Theo kế hoạch đặt ra, thời gian thực hiện Dự án là 39 tháng kể từ khi có quyết định đầu tư.
Sau 3 tháng có quyết định, Tcty Xây dựng Công nghiệp Việt Nam đã thành lập Ban Chỉ đạo Dự án, do đồng chí Chủ tịch HĐQT làm Trưởng ban, lập kế hoạch đấu thầu Dự án và trình Chính phủ phê duyệt (gồm 38 gói thầu, trong đó có 3 gói thầu quốc tế, 9 gói đấu thầu trong nước, 13 gói tự thực hiện và 13 gói chỉ định thầu), đồng thời phối hợp với UBND tỉnh Thái Nguyên thành lập Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng, với mục tiêu hoàn thành nhanh nhất để sản phẩm xi măng Thái Nguyên sớm có mặt trên thị trường. Ngày 12/3/2003, Nhà máy được khởi công xây dựng, với sự chứng kiến của Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Hoàng Trung Hải, lãnh đạo các Bộ, Ban, Ngành hữu quan trung ương, chính quyền và nhân dân tỉnh Thái Nguyên. Tới thời điểm hiện nay, Vinaincon đang chỉ đạo các đơn vị thi công xây dựng nhà hành chính, tiếp tục san lấp mặt bằng và chuẩn bị các bước tiếp theo của Dự án.
Về nguồn vốn cho mua sắm thiết bị, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam là ngân hàng đầu mối thu xếp vốn. Với những nỗ lực trong thương thảo, ngày 21/4/2004, Vinaincon đã ký HĐ với Quỹ Hỗ trợ TW, vay 1.194 tỷ đồng. Ngày 24/7/2004, Vinaincon tiếp tục ký HĐ với Bộ Tài chính vay 20 triệu USD. Ngày 16/6/2005, Vinaincon ký HĐ với 2 ngân hàng là Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Việt Nam để vay tổng số tiền là 376,9 tỷ đồng và ngày 28/6/2005, vay tín dụng nước ngoài, với số vốn gần 59 triệu Euro, phục vụ gói thầu số 1. Đây chính là những điểm mốc quan trọng giúp Vinaincon giảm bớt khó khăn về tài chính, đẩy nhanh tiến độ Dự án trong thời gian tới.
2. Chậm, vì sao ?
Phía Vinaincon cam kết, sẽ làm tất cả những gì có thể để đẩy nhanh tiến trình thực hiện dự án, chậm nhất là cuối năm 2007 sẽ hoàn thành và đầu năm 2008, Nhà máy đi vào hoạt động và sản phẩm xi măng Thái Nguyên sẽ góp mặt trên thị trường. Tuy nhiên, nếu so với kế hoạch ban đầu - quý II/2005, Nhà máy phải hoàn thành và đi vào hoạt động, thì tính đến nay, Nhà máy Xi măng Thái Nguyên đã chậm mất khoảng 30 tháng. Tại sao lại có sự chậm trễ này ?
Theo ông Phạm Văn Hạnh - Giám đốc Ban Quản lý Dự án thì khó khăn tập trung ở 3 khâu chính, cũng là 3 nguyên nhân cơ bản làm cho dự án bị kéo dài thời gian so với dự kiến, đó là đền bù giải phóng mặt bằng, tổ chức đấu thầu gói thầu số 1 và việc thu xếp tín dụng cho Dự án.
Cũng như hầu hết các dự án xây dựng khác, khó khăn đầu tiên phải kể đến là khâu đền bù, giải phóng mặt bằng. Mặc dù Vinaincon và UBND tỉnh Thái Nguyên đã rất tích cực trong việc kiểm đếm, lập phương án đền bù và vận động nhân dân… nhưng chỉ riêng việc giải phóng mặt bằng khu vực xây dựng nhà máy đã phải kéo dài mất gần 2 năm và cho tới nay, khu vực để xây dựng khu tập thể cho CBCNV vẫn chưa được giải toả mặt bằng, chủ yếu do người dân chưa chịu nhận tiền đền bù, chưa chịu di dời và đòi hỏi đất tái định cư hay giá bồi thường phải cao hơn…
Khó khăn thứ hai mà Vinaincon gặp phải là thời gian đấu thầu gói thầu số 1 đã phải kéo dài quá lâu (trong suốt 15 tháng). Đây là gói thầu đấu thầu quốc tế, cung cấp thiết bị chính cho dây chuyền công nghệ mà Việt Nam chưa sản xuất được và dịch vụ trợ giúp kỹ thuật, với tổng giá trị theo kế hoạch là 1.200 tỷ đồng, tương đương 56,7 triệu USD. Nguyên nhân cơ bản của sự kéo dài này là phải xử lý tình huống giá dự thầu của các nhà thầu vượt giá gói thầu trong kế hoạch đấu thầu, do tình hình giá cả nguyên vật liệu trên thế giới biến đổi nhiều và tỷ giá giữa đồng Euro và đồng USD cũng có sự biến động lớn. Thực ra, tới thời điểm đầu tháng 9 năm 2004, phía Vinaincon đã quyết định nhà thầu FCB. Ciment (Cộng hoà Pháp) trúng thầu, với giá 61 triệu Euro, nhưng phía nhà thầu đã không chấp nhận, cũng vì lí do trượt giá nói trên. Và qua quá trình đàm phán, thương thảo, phải tới tận ngày 17/2/2005, hợp đồng mới được ký kết giữa hai bên.
Còn về nguồn vốn, theo nguyên tắc, chủ đầu tư phải thu xếp được nguồn vốn, thì dự án mới được phê duyệt đầu tư. Trường hợp Dự án Xi măng Thái Nguyên, năm 2001, Vinaincon đã được các ngân hàng trong nước cam kết cho vay đủ số vốn cần thiết cho Dự án (khoảng 1.400 tỷ đồng). Tuy nhiên, sau đó, không biết có phải do Vinaincon chưa có kinh nghiệm trong việc quản lý dự án lớn và chưa biết cách đi vay hay vì lí do gì, mà các ngân hàng đã đơn phương thông báo rút mức cho vay xuống còn khoảng 900 tỷ đồng, 700 tỷ đồng, rồi 450 tỷ đồng và cuối cùng tới ngày 16/6/2005, thực ký vay được 376,9 tỷ đồng. Với những khó khăn như vậy, Vinaincon tất yếu phải báo cáo và xin phép Chính phủ cho vay tín dụng nước ngoài, mà ở đây là Ngân hàng BNP Paripas, Cộng hoà Pháp. Tuy nhiên, khi vay vốn nước ngoài, Vinaincon phải đợi thêm rất nhiều thời gian để các tổ chức bảo hiểm tín dụng người mua nước ngoài thẩm định kỹ các vấn đề liên quan của Dự án, như: ảnh hưởng môi trường, ảnh hưởng của việc di dân đến đời sống, công ăn việc làm của nhân dân, việc đền bù giải phóng mặt bằng ... Và tới ngày 7/6/2005, các tổ chức này mới thẩm định xong và đồng ý ký kết hợp đồng cho vay. Hiện nay, Vinaincon cũng phải đợi thêm ít nhất 3 tháng sau ký kết, hợp đồng mới có hiệu lực. Thành ra, việc giải quyết các thủ tục vay vốn trong và ngoài nước đã thực sự mất rất nhiều thời gian, làm cho tiến độ thực hiện Dự án đã chậm lại càng chậm hơn.
3. Lời kết.
Theo dự báo của Viện Vật liệu Xây dựng, nhu cầu xi măng trong năm 2005 khoảng 29 triệu tấn, năm 2010 khoảng 46,8 triệu tấn, năm 2015 khoảng 62,5 triệu tấn và 2020 là khoảng 70 triệu tấn. Hiện nay, cả nước đã có 13 nhà máy xi măng lò quay và 53 nhà máy xi măng lò đứng đang hoạt động, với tổng công suất thiết kế hơn 22 triệu tấn/năm, sản xuất từ nguồn clinhke trong nước. Ngoài ra, còn có cơ sở nghiền xi măng với tổng công suất trên 5 triệu tấn/năm, bằng nguồn clinhke nhập khẩu. Theo kế hoạch, từ nay đến năm 2008, nước ta sẽ có thêm 21 dự án xi măng đi vào hoạt động, với tổng công suất thiết kế hơn 30 triệu tấn. Tuy nhiên, toàn bộ các nhà máy xi măng này vẫn không đủ cung cấp cho nhu cầu của thị trường trong vòng 4 - 5 năm sau.
Mục tiêu phát triển ngành công nghiệp Xi măng theo Quyết định số 108/2005/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 16/5/2005 về việc Quy hoạch phát triển công nghiệp Xi măng Việt Nam đến 2010 và định hướng đến 2020 được đặt ra là: “Đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ trong nước (cả về số lượng và chủng loại), có thể xuất khẩu khi có điều kiện, đưa ngành Xi măng Việt Nam thành một ngành công nghiệp mạnh, có công nghệ hiện đại, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế trong tiến trình hội nhập”. Chính vì vậy, có thể thấy rằng, Dự án Xi măng Thái Nguyên tuy đã bị chậm mất gần 3 năm so với dự kiến, nhưng với những bước đi thận trọng, nhất là về tài chính và các hợp đồng cung cấp thiết bị đã được ký kết, nếu Vinaincon quyết tâm, tập trung lực lượng để tăng tốc thi công, lắp đặt thiết bị... thì hy vọng, đến năm 2008, Xi măng Thái Nguyên vẫn kịp có mặt trên thị trường.