Theo CNBC, Google Glass được giới thiệu lần đầu năm 2013 với tư cách một trong các thiết bị thực tế tăng cường (AR). Đây là một cặp kính hệt như kính bình thường, sử dụng máy chiếu nhỏ để tạo hình ảnh trước mắt người dùng và hình ảnh trông như đang “nổi” giữa thế giới thực.
Google Glass đặt mục tiêu vào giới doanh nghiệp trong vài năm qua sau khi nỗ lực đến với người tiêu dùng thất bại. Google Glass không được lòng người tiêu dùng phổ thông vì nó đắt tiền, có camera tích hợp gây lo ngại về quyền riêng tư. Mẫu Google Glass nhắm đến thị trường tiêu dùng bị ngừng từ năm 2015.
Google Glass Enterprise Edition 2 này chạy trên nền tảng Qualcomm Snapdragon XR1. Google cho biết nó có thời lượng pin dài hơn. Smith Optics cũng cung ứng tròng kính trông như tròng kính bình thường. Điều này đồng nghĩa với việc sản phẩm ít cồng kềnh hơn so với các đối thủ như HoloLens của Microsoft và kính từ hãng Magic Leap.
Google Glass Enterprise Edition 2 có giá 999 USD, song giá này có thể hạ tùy thuộc vào doanh nghiệp và hợp đồng với Google. Mức giá chỉ ba chữ số của Google Glass thấp hơn hẳn so với sản phẩm HoloLens 2 của Microsoft, vốn cũng được doanh nghiệp và quân đội sử dụng nhưng có giá khởi điểm là 3.500 USD.
HoloLens 2 được công bố hồi tháng 2, mạnh hơn Google Glass và phủ thông tin lên thế giới thực mà người dùng có thể nhìn qua cả hai mắt. Google Glass Enterprise Edition 2 hệt như bản đầu tiên, chỉ có máy chiếu nhỏ ở một bên mắt.
Dù vậy, Google Glass Enterprise Edition 2 được xây dựng trên Android, dễ sử dụng hơn mẫu đầu tiên vì giờ đây, nó còn hỗ trợ quản lý thiết bị di động, vốn được dùng để cấu hình thiết bị với ứng dụng và dịch vụ, chẳng hạn như máy tính bảng, điện thoại. Hỗ trợ quản lý thiết bị di động còn giúp kiểm soát cách nhân viên sử dụng kính, cho phép vô hiệu hóa kính trong trường hợp nó bị đánh mất.
Google cho biết Google Glass được dùng trong các ngành sản xuất, logistics và dịch vụ của các hãng như H.B Fuller, Sutter Health, Deutsche Post DHL và AGCO.