Hoàn thiện quy định pháp luật cạnh tranh về xử lý vi phạm đối với hành vi tập trung kinh tế

Bài báo Hoàn thiện quy định pháp luật cạnh tranh về xử lý vi phạm đối với hành vi tập trung kinh tế do Nguyễn Thị Việt Hà (Khoa Pháp luật kinh tế - Trường Đại học Luật Hà Nội) thực hiện.

TÓM TẮT:

Bài viết tập trung phân tích và làm rõ các bất cập trong quy định về xử lý vi phạm đối với hành vi tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh hiện hành, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm và đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh tại Việt Nam.

Từ khóa: pháp luật cạnh tranh, xử lý vi phạm, hành vi tập trung kinh tế.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển và hội nhập sâu rộng, tập trung kinh tế (TTKT) không chỉ là quyền tự do kinh doanh mà còn là nhu cầu thiết yếu của các doanh nghiệp nhằm gia tăng sức mạnh cạnh tranh và mở rộng quy mô hoạt động. Tại Việt Nam, hoạt động TTKT trong những năm gần đây diễn ra sôi động, đặc biệt là những thương vụ lớn có sự tham gia của các tập đoàn kinh tế hàng đầu như Vingroup, Nova Group, Massan,... đã tạo ra những tác động đáng kể đến thị trường. Theo báo cáo hoạt động kiểm soát TTKT của Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương (2022), số lượng hồ sơ thông báo TTKT đã đạt 154 hồ sơ, tăng 18,46% so với năm 2021 và 148% so với năm 2020. Những con số này không chỉ phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của thị trường, mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc kiểm soát và điều chỉnh hành vi TTKT một cách minh bạch, hiệu quả. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy vẫn tồn tại nhiều vi phạm trong quá trình thực hiện TTKT, gây ra những hệ lụy tiêu cực đến thị trường và người tiêu dùng. Theo quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam, các hành vi vi phạm TTKT bao gồm: doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ thông báo TTKT theo quy định của Luật Cạnh tranh 2018; thực hiện TTKT bị cấm như quy định tại Điều 30; vi phạm quy trình thẩm định sơ bộ và chính thức, bao gồm các trường hợp thực hiện TTKT khi chưa có thông báo kết quả thẩm định sơ bộ, thực hiện TTKT khi chưa có quyết định của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia sau khi thẩm định chính thức; không tuân thủ đầy đủ các điều kiện quy định được thể hiện trong quyết định về TTKT. Những vi phạm này không chỉ tiềm ẩn nguy cơ làm méo mó thị trường, hạn chế cạnh tranh mà còn ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Do đó, việc hoàn thiện pháp luật cạnh tranh về xử lý vi phạm đối với hành vi TTKT là yêu cầu cấp thiết. Điều này sẽ giúp tăng cường hiệu quả trong việc xử lý các hành vi vi phạm, đảm bảo quyết định xử lý được đưa ra một cách khách quan và chính xác. Một khung pháp lý chặt chẽ sẽ tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy sự phát triển ổn định và công bằng của nền kinh tế Việt Nam.

2. Thực trạng quy định pháp luật cạnh tranh về xử lý vi phạm đối với hành vi tập trung kinh tế

2.1. Quy định pháp luật cạnh tranh về xử lý vi phạm đối với hành vi tập trung kinh tế

2.1.1. Quy định về hình thức xử phạt đối với hành vi vi phạm về tập trung kinh tế

Theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2018, các hành vi vi phạm TTKT phải chịu hai hình thức xử phạt sau:

  - Hình thức xử phạt chính:

Đối với các hành vi vi phạm pháp luật về TTKT, các doanh nghiệp vi phạm phải chịu hình thức xử phạt là phạt tiền. Cụ thể, mức phạt tiền được áp dụng đối với từng hành vi vi phạm TTKT được quy định như sau:

+ Doanh nghiệp thực hiện hành vi sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh giữa các doanh nghiệp thuộc các trường hợp bị cấm theo Điều 30 của Luật Cạnh tranh sẽ bị phạt tiền từ 01% đến 05% tổng doanh thu trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm của các doanh nghiệp. [1]

+ Doanh nghiệp không thông báo TTKT theo quy định của Luật Cạnh tranh 2018 sẽ bị phạt tiền từ 01% đến 05% tổng doanh thu trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm của từng doanh nghiệp tham gia TTKT mà không thực hiện nghĩa vụ thông báo theo quy định tại Điều 33 của Luật Cạnh tranh 2018. [2]

+ Doanh nghiệp thực hiện TTKT khi chưa có thông báo kết quả thẩm định sơ bộ của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật Cạnh tranh 2018 hay doanh nghiệp thuộc trường hợp phải thẩm định chính thức việc TTKT nhưng lại thực hiện hành vi TTKT khi Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia chưa ra quyết định quy định tại Điều 41 của Luật Cạnh tranh 2018 thì sẽ chịu mức phạt tiền từ 0,5% đến 0,1% tổng doanh thu trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm của từng doanh nghiệp.[3]

+ Doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ điều kiện được thể hiện trong quyết định về TTKT quy định tại điểm b khoản 1 Điều 41 Luật Cạnh tranh 2018 và doanh nghiệp thực hiện TTKT trong trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 41 Luật Cạnh tranh 2018 thì phải chịu mức phạt tiền là 01% đến 03% tổng doanh thu trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm của từng doanh nghiệp.[4]

Có thể thấy, mức xử phạt vi phạm hành chính chung đối với các hành vi TTKT nêu trên đều không quá 05% tổng doanh thu trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm của từng doanh nghiệp tham gia TTKT. Trường hợp tổng doanh thu của doanh nghiệp có hành vi vi phạm trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm quy định nêu trên được xác định bằng 0 thì áp dụng mức phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng.  

-  Hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả

Trong số các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền là hình thức xử phạt chính và phổ biến nhất. Tuy nhiên, bên cạnh việc bị phạt tiền, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, các doanh nghiệp tiến hành TTKT thuộc trường hợp bị cấm còn có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung và các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định của Luật Cạnh tranh và Nghị định số 75/2019/NĐ- CP, cụ thể như sau:

+ Trường hợp doanh nghiệp thực hiện hành vi sáp nhập doanh nghiệp bị cấm sẽ buộc phải chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập; đồng thời, buộc chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp nhận sáp nhập.

Việc quy định như thế này là hợp lý bởi đã vi phạm quy định không được sáp nhập thì nếu không buộc chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập có thể sẽ ảnh hưởng tới nền kinh tế nói chung, lĩnh vực kinh tế bị tập trung nói riêng mà còn ảnh hưởng tới sự nghiêm minh của pháp luật, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước. Do vậy, việc xử lý trường hợp này theo cách buộc chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập là cần thiết.

+ Trường hợp doanh nghiệp thực hiện hành vi hợp nhất doanh nghiệp bị cấm sẽ bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đã cấp cho doanh nghiệp hợp nhất. Đồng thời, doanh nghiệp thực hiện hành vi vi phạm này cũng phải chịu biện pháp khắc phục bổ sung giống như đối với hành vi thực hiện hành vi sáp nhập doanh nghiệp bị cấm, đó là: buộc chia, tách doanh nghiệp hợp nhất và buộc chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp mới hình thành sau TTKT.

Hình thức xử phạt này nhằm mục đích răn đe và quản lý thị trường tốt hơn, đồng thời, giúp loại bỏ những yếu tố gây cản trở cạnh tranh trên thị trường từ hành vi hợp nhất doanh nghiệp bị cấm này.

+ Trường hợp doanh nghiệp thực hiện hành vi mua lại doanh nghiệp bị cấm thì dựa vào tính chất của hành vi này nên hình thức xử phạt khắc phục hậu quả tương ứng đó là bán lại một phần hoặc toàn bộ vốn góp, tài sản mà doanh nghiệp đã mua, bởi vì đó là hành vi vi phạm nên bắt buộc phải thực hiện quy định này và chịu sự quản lý của nhà nước với một số nội dung của doanh nghiệp cụ thể. Đồng thời, buộc chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời hạn nhất định về giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp mua lại.

+ Đối với hành vi liên doanh giữa các doanh nghiệp bị cấm thì hình thức xử phạt bổ sung là thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đã cấp cho doanh nghiệp liên doanh. Bên cạnh đó, doanh nghiệp thực hiện hành vi này còn buộc phải chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp liên doanh.

2.1.2. Quy định về trình tự, thủ tục xử lý đối với hành vi vi phạm về tập trung kinh tế

Luật Cạnh tranh 2018 đã đưa ra quy định cụ thể về trình tự, thủ tục xử lí vụ việc vi phạm quy định về TTKT tại Điều 89 Luật Cạnh tranh 2018. Có thể thấy, trình tự này đã được rút gọn và đơn giản hóa một cách tối đa so với quy định trước đây, bởi lẽ dựa trên sự thay đổi cơ bản về cách tiếp cận chế định TTKT với ý nghĩa là một quyền tự do của doanh nghiệp, không còn là hành vi thuộc vào nhóm hành vi gây hạn chế cạnh tranh. Cụ thể, trình tự, thủ tục xử lý vi phạm đối với các hoạt động TTKT có thể phân chia thành các bước cơ bản sau đây:

Bước 1: Khiếu nại vụ việc cạnh tranh

Các doanh nghiệp cho rằng, quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại do hành vi TTKT của doanh nghiệp khác gây ra có quyền thực hiện khiếu nại vụ việc cạnh tranh đến Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia. Việc thực hiện quyền khiếu nại vụ việc cạnh tranh nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia TTKT.

Bước 2: Tiếp nhận, xem xét hồ sơ khiếu nại

Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ khiếu nại, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có trách nhiệm xem xét tính đầy đủ, hợp lệ của hồ sơ khiếu nại. Trong trường hợp hồ sơ khiếu nại đầy đủ, hợp lệ, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia thông báo cho bên khiếu nại về việc tiếp nhận hồ sơ, đồng thời thông báo cho bên bị khiếu nại. Sau khi thông báo cho các bên liên quan, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia xem xét hồ sơ khiếu nại. Bên cạnh đó, trong thời hạn tiếp nhận và xem xét hồ sơ khiếu nại, bên khiếu nại có quyền rút hồ sơ khiếu nại và Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia dừng việc xem xét hồ sơ khiếu nại.

Bước 3: Điều tra vụ việc cạnh tranh

Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh ra quyết định điều tra vụ việc TTKT trong 02 trường hợp sau:[5]

- Tổ chức, cá nhân cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại do hành vi TTKT của doanh nghiệp khác gây ra.

- Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phát hiện hành vi TTKT có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh trong thời hạn 03 năm kể từ ngày hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh được thực hiện.

Thời hạn điều tra vụ việc vi phạm quy định về TTKT là 90 ngày kể từ ngày ra quyết định điều tra; đối với vụ việc phức tạp thì được gia hạn một lần nhưng không quá 60 ngày[6] và khi gia hạn điều tra phải thông báo cho các bên trước 07 ngày làm việc trước ngày kết thúc thời hạn điều tra[7]. Trong quá trình điều tra, nếu nhận thấy vụ việc có dấu hiệu hình sự, điều tra viên phải báo cáo thủ trưởng cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh xem xét, kiến nghị Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh quốc gia chuyển một phần hoặc toàn bộ hồ sơ liên quan đến cơ quan nhà nước có  quyền để xử lý theo quy định của pháp luật.

Sau khi kết thúc điều tra, điều tra viên vụ việc vi phạm quy định về TTKT lập báo cáo điều tra gồm các nội dung chủ yếu sau đây để trình Thủ trưởng Cơ quan điều tra: tóm tắt vụ việc, xác định hành vi vi phạm; tình tiết và chứng cứ được xác minh; đề xuất biện pháp xử lý. Ngoài ra, Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh ra kết luận điều tra và chuyển hồ sơ vụ việc cạnh tranh, báo cáo điều tra và kết luận điều tra đến Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia để tổ chức xử lý theo quy định của Luật Cạnh tranh 2018.[8]

Bước 4: Xử lý vụ việc vi phạm quy định về tập trung kinh tế

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ việc, báo cáo điều tra và kết luận điều tra, Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phải ra một trong các quyết định sau: Xử lý vụ việc vi phạm quy định về TTKT; Yêu cầu Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh điều tra bổ sung trong trường hợp nhận thấy các chứng cứ thu thập chưa đủ để xác định hành vi vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh; Đình chỉ giải quyết vụ việc vi phạm quy định về TTKT.[9]

Bước 5: Giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh                                                                                                

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định xử lý vụ việc vi phạm quy định về TTKT, tổ chức, cá nhân không nhất trí với nội dung quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia.[10]

Trong quy định về hậu quả của việc khiếu nại quyết định xử lý vụ việc vi phạm quy định về TTKT tại Điều 99 Luật Cạnh tranh 2018, Luật Cạnh tranh 2018 đã bổ sung một quy định mang tính dự phòng tại khoản 2 Điều 99, đó là trong quá trình giải quyết khiếu nại, nếu xét thấy việc thi hành quyết định xử lý vụ việc vi phạm quy định về TTKT bị khiếu nại sẽ gây hậu quả khó khắc phục thì Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia ra quyết định tạm đình chỉ việc thi hành đó. Quyết định tạm đình chỉ của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia hết hiệu lực kể từ ngày quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc vi phạm quy định về TTKT có hiệu lực pháp luật. Có thể nói, nguyên nhân dẫn đến quy định trên do hoạt động TTKT của doanh nghiệp là hoạt động bắt buộc mà doanh nghiệp phải thực hiện để có thể tồn tại, nếu quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh bị khiếu nại vẫn tiếp tục được thi hành như quy định của khoản 1 Điều 99 Luật Cạnh tranh 2018 có khả năng sẽ gây phương hại, tổn thất lớn cho doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc đặt ra quy định về việc tạm đình chỉ thi hành quyết định xử lý vụ việc vi phạm quy định về TTKT bị khiếu nại là cần thiết.

2.2. Một số bất cập của pháp luật cạnh tranh về xử lý vi phạm đối với hành vi tập trung kinh tế

Thứ nhất, quy định về mức xử phạt đối với hành vi không thông báo TTKT.

Thông báo TTKT được xem như một "hàng rào kiểm soát" quan trọng, giúp Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia kịp thời nắm bắt thông tin về các giao dịch TTKT, từ đó thẩm định, đánh giá các khả năng gây tác động của giao dịch đối với thị trường. Nếu doanh nghiệp không thực hiện thông báo TTKT, giao dịch TTKT có thể được thực hiện trót lọt mà không trải qua bất kỳ quá trình kiểm soát nào, điều này tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến hàng loạt hành vi vi phạm nghiêm trọng khác trong lĩnh vực cạnh tranh, gây ảnh hưởng lớn tới thị trường. Tuy nhiên, hiện nay mức xử phạt đối với hành vi không thông báo TTKT chỉ dừng lại ở mức không quá 05% tổng doanh thu trong năm tài chính liền kề trước năm vi phạm, tương đương với mức phạt áp dụng cho các hành vi vi phạm TTKT khác. Việc áp dụng một mức phạt chung cho tất cả các hành vi vi phạm TTKT mà không phân biệt tính chất và mức độ nguy hiểm của từng hành vi là chưa thực sự phù hợp. Trong nhiều trường hợp, lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp thu được từ việc không thông báo và thực hiện thành công giao dịch TTKT có thể lớn hơn rất nhiều so với mức phạt hành chính phải chịu. Điều này vô tình tạo ra "kẽ hở" cho doanh nghiệp sẵn sàng chấp nhận rủi ro, biến mức phạt hành chính trở thành một "chi phí" trong chiến lược kinh doanh của mình, từ đó làm suy giảm tính răn đe và hiệu lực của pháp luật cạnh tranh.

Thứ hai, quy định về thông báo TTKT và thẩm định sơ bộ TTKT.

Theo quy định hiện hành, nội dung thẩm định sơ bộ việc TTKT bao gồm: Thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia TTKT trên thị trường liên quan; Mức độ tập trung trên thị trường liên quan; Mối quan hệ của các doanh nghiệp tham gia TTKT trong chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định hoặc ngành, nghề kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia TTKT là đầu vào của nhau hoặc bổ trợ cho nhau[11]. Nhìn vào các tiêu chí này, có thể thấy luật hiện chỉ đề cập đến việc thẩm định đối với việc TTKT theo chiều ngang và chiều dọc, còn TTKT dạng hỗn hợp thì chưa được xác định là có thực hiện thẩm định hay không. Sự thiếu rõ ràng này, có thể khiến doanh nghiệp thực hiện TTKT dạng hỗn hợp gặp khó khăn trong việc xác định nghĩa vụ pháp lý, không biết doanh nghiệp có cần thực hiện thông báo TTKT hay không khi không có tiêu chí nào để thẩm định TTKT dạng hỗn hợp này. Điều này dẫn đến hai hệ quả đáng lo ngại: Thứ nhất, nếu doanh nghiệp không thông báo, trong trường hợp pháp luật vẫn yêu cầu thông báo đối với TTKT hỗn hợp nhưng quy định chưa rõ ràng, doanh nghiệp có thể vô tình vi phạm và bị xử phạt. Thứ hai, nếu doanh nghiệp thực hiện thông báo nhưng thực chất pháp luật lại không yêu cầu thì điều này có thể dẫn đến tình trạng quá tải cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia. Bởi lẽ, TTKT dạng hỗn hợp thường có tác động cạnh tranh rất thấp, việc thẩm định các giao dịch này không mang lại giá trị quản lý đáng kể, nhưng lại khiến Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phải phân bổ nhân sự và thời gian không cần thiết, làm giảm hiệu quả xử lý các vụ việc thực sự quan trọng. Như vậy, việc thiếu quy định rõ ràng về TTKT hỗn hợp không chỉ ảnh hưởng đến doanh nghiệp mà còn tác động tiêu cực đến hiệu quả quản lý của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia.

Thứ ba, quy định về điều tra bổ sung trong quá trình xử lý vụ việc vi phạm TTKT.

Theo quy định, Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có thể yêu cầu điều tra bổ sung nếu chứng cứ chưa đủ, nhưng luật lại không quy định cụ thể về số lần tối đa được phép điều tra bổ sung, dẫn đến nguy cơ kéo dài quá trình xử lý không cần thiết. Điều này khiến doanh nghiệp rơi vào tình trạng pháp lý "lửng lơ", khó ổn định kinh doanh. Ngoài ra, sự thiếu rõ ràng về số lần điều tra bổ sung cũng có thể tạo ra kẽ hở để cơ quan thực thi pháp luật sử dụng như một công cụ để gây sức ép hoặc kéo dài quá trình xử lý vì những lý do không thực sự cần thiết. Điều này đi ngược lại nguyên tắc đảm bảo tính minh bạch, khách quan và kịp thời trong giải quyết các vụ việc cạnh tranh, từ đó làm giảm hiệu quả thực thi pháp luật và ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.

Thứ tư, quy định về hậu quả của khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh tại khoản 2 Điều 99 Luật Cạnh tranh 2018.

Trước hết, quy định này không quy định rõ thế nào là “hậu quả khó khắc phục” khi quyết định xử lý bị khiếu nại, dẫn đến việc đánh giá có thể mang tính chủ quan và thiếu nhất quán. Trong thực tế, một doanh nghiệp có thể lập luận, nếu quyết định xử lý được thi hành ngay, họ sẽ chịu thiệt hại lớn do phải hủy bỏ một thương vụ sáp nhập quan trọng, nhưng không có tiêu chí khách quan nào để xác định mức độ thiệt hại đó có thực sự nghiêm trọng hay không. Điều này có thể tạo ra tiền lệ nguy hiểm khi doanh nghiệp lợi dụng quy định để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ pháp lý.

Bên cạnh đó, luật cũng không quy định thời hạn tối đa cho việc tạm đình chỉ, điều này khiến quá trình xử lý vụ việc có thể bị kéo dài vô thời hạn nếu doanh nghiệp liên tục khiếu nại. Một doanh nghiệp bị yêu cầu hủy bỏ thương vụ sáp nhập có thể tận dụng lỗ hổng này để tiếp tục hoạt động như một doanh nghiệp đã mở rộng quy mô thông qua sáp nhập trong thời gian chờ giải quyết khiếu nại, làm suy giảm hiệu lực của các biện pháp xử lý vi phạm.

3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm quy định tập trung kinh tế

Về cơ bản, pháp luật cạnh tranh Việt Nam đã xây dựng được quy trình khá chặt chẽ để giúp cơ quan quản lý cạnh tranh xử lý các vi phạm về TTKT một cách hiệu quả. Tuy nhiên, để nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam về xử lý vi phạm TTKT sao cho Nhà nước có sự can thiệp vừa đủ để bảo vệ tính cạnh tranh trên thị trường và hiệu quả kinh tế không bị suy giảm mà vẫn đảm bảo tính răn đe cho các doanh nghiệp thực hiện hành vi vi phạm, tác giả xin đề xuất một số giải pháp sau:

Thứ nhất, cần tăng mức xử phạt đối với hành vi không thông báo TTKT.

Để khắc phục bất cập trong quy định về mức xử phạt đối với hành vi không thông báo TTKT, cần xem xét nâng mức xử phạt hành chính đối với hành vi không thông báo TTKT lên cao hơn so với các hành vi vi phạm TTKT khác, chẳng hạn có thể áp dụng mức phạt lên đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính liền kề trước năm vi phạm. Tuy nhiên, việc tăng mức xử phạt cũng cần được thực hiện một cách cân bằng và hợp lý tránh gây áp lực quá mức lên doanh nghiệp nhưng vẫn đủ sức răn đe để có thể ngăn chặn các hành vi vi phạm. Thay vì chỉ tập trung vào mức phạt tài chính, pháp luật có thể áp dụng thêm các biện pháp xử phạt bổ sung như buộc doanh nghiệp hủy bỏ giao dịch đã thực hiện, yêu cầu tái cơ cấu hoặc nộp lại toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ hành vi TTKT. Đối với các trường hợp tái phạm nhiều lần hoặc cố tình che giấu thông tin, cần cân nhắc áp dụng các hình thức xử phạt nặng hơn như tước quyền tham gia TTKT trong một khoảng thời gian nhất định hoặc cấm tham gia vào các hoạt động kinh doanh có liên quan. Việc điều chỉnh này không chỉ góp phần nâng cao tính răn đe của pháp luật mà còn giúp ngăn chặn các hành vi vi phạm tiếp nối và bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh.

Thứ hai, cần xác định rõ TTKT dạng hỗn hợp có thuộc trường hợp phải thông báo TTKT hay không.

Luật Cạnh tranh cần xác định rõ liệu TTKT dạng hỗn hợp có thuộc diện bắt buộc cần thông báo TTKT hay không. Nếu có, luật cần bổ sung các tiêu chí thẩm định sơ bộ cụ thể đối với loại hình TTKT này, tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng xác định nghĩa vụ pháp lý của mình, giúp giảm thiểu nguy cơ doanh nghiệp bị xử lý đối với hành vi “không thông báo TTKT” do thiếu thông tin hoặc hiểu sai quy định. Mặt khác, việc quy định rõ ràng cũng giúp Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia tối ưu hóa nguồn lực, tập trung thẩm định các giao dịch TTKT thực sự tiềm ẩn nguy cơ gây hại thực sự cho thị trường. Đồng thời, sự rõ ràng trong quy định cũng góp phần nâng cao hiệu quả điều tra và xử lý các hành vi vi phạm quy định về TTKT.

Thứ ba, cần quy định về số lần điều tra bổ sung.

Để khắc phục được những bất cập đã nêu, cần bổ sung quy định cụ thể về số lần tối đa được phép yêu cầu điều tra bổ sung trong quá trình xử lý các hành vi vi phạm quy định TTKT. Chẳng hạn nên giới hạn số lần điều tra bổ sung ở mức 1-2 lần đối với mỗi vụ việc. Sự điều chỉnh này sẽ góp phần quan trọng trong việc tăng cường tính minh bạch, đồng thời quy định chặt chẽ số lần điều tra bổ sung cũng giúp giảm thiểu rủi ro kéo dài quá trình xử lý, tạo điều kiện để doanh nghiệp và các bên liên quan yên tâm thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình trong môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng.

Thứ tư, cần bổ sung, sửa đổi quy định hậu quả của khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh tại khoản 2 Điều 99 Luật Cạnh tranh 2018.

Để khắc phục những bất cập trên, cần bổ sung tiêu chí cụ thể nhằm xác định thế nào là “hậu quả khó khắc phục”, ví dụ như thiệt hại tài chính nghiêm trọng, tác động tiêu cực đến thị trường hoặc ảnh hưởng lớn đến xã hội. Đồng thời, cần giới hạn thời gian tạm đình chỉ ở mức hợp lý, chẳng hạn không quá 30 hoặc 60 ngày, nhằm đảm bảo tính kịp thời của việc thực thi pháp luật. Ngoài ra, luật cũng nên quy định rõ số lần tối đa doanh nghiệp có thể khiếu nại và yêu cầu tạm đình chỉ để tránh việc lạm dụng kéo dài thời gian xử lý. Trong thời gian tạm đình chỉ, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia cần có cơ chế giám sát doanh nghiệp nhằm ngăn chặn hành vi lợi dụng khoảng thời gian này để hoàn tất các thương vụ TTKT hoặc tìm cách lách luật. Những điều chỉnh này sẽ giúp đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả và kỷ luật trong quá trình thực thi pháp luật cạnh tranh, ngăn chặn các doanh nghiệp vi phạm sử dụng khiếu nại như một chiến lược trì hoãn để né tránh trách nhiệm.

4. Kết luận

TTKT là một hoạt động vừa đem lại lợi ích tích cực cho nền kinh tế nói chung và cho các doanh nghiệp tham gia nói riêng, vừa tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường cạnh tranh nếu không được kiểm soát chặt chẽ. Chính vì vậy, việc xây dựng và thực thi quy định của pháp luật cạnh tranh về xử lý hành vi vi phạm TTKT đóng vai trò then chốt trong việc duy trì sự minh bạch, lành mạnh của thị trường. Nhận thức được vấn đề đó, Luật Cạnh tranh năm 2018 đã xây dựng quy trình xử lý các hành vi vi phạm quy định về TTKT khá cụ thể. Tuy nhiên, qua phân tích, có thể thấy quy định hiện hành vẫn còn một số bất cập liên quan tới mức xử phạt, quy trình thẩm định sơ bộ hay thời gian điều tra khiến cho việc xử lý vi phạm quy định về TTKT chưa thực sự hiệu quả. Do vậy, việc hoàn thiện các quy định về xử lý vi phạm TTKT là yêu cầu cấp thiết nhằm tăng cường tính minh bạch và góp phần nâng cao hiệu quả xử lý các hành vi vi phạm quy định về TTKT trong tương lai, đảm bảo môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh và thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam.

Tài liệu trích dẫn:

1Theo quy định tại Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 13 của Nghị định số 75/2019/NĐ-CP

2Khoản 1 Điều 14 Nghị định số 75/2019/NĐ-CP

3Khoản 1 Điều 15 Nghị định số 75/2019/NĐ-CP

4Khoản 2 Điều 15 Nghị định số 75/2019/NĐ-CP

5Điều 80 Luật Cạnh tranh 2018

6Khoản 2, Điều 81 Luật Cạnh tranh 2018

7Khoản 4 Điều 81 Luật Cạnh tranh 2018

8Điều 88 Luật Cạnh tranh 2018

9Điều 89 Luật Cạnh tranh 2018

10 Điều 96 Luật Cạnh tranh 2018

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Chính phủ, Nghị định số 75/2019/NĐ-CP, ngày 26-09-2019, Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh.

2. Quốc hội, Luật Cạnh tranh số 23/2018/QH14 ngày 12/6/2018.

Improving competition regulations on addressing violations of economic concentration

Nguyen Thi Viet Ha

Faculty of Economic Law, Hanoi Law University

Abstract:

This study analyzes and highlights the limitations in the current regulations governing the handling of violations related to economic concentration under Vietnam’s competition law. Based on the identified shortcomings, the study proposes several solutions aimed at improving the legal framework, thereby enhancing the effectiveness of enforcement against economic concentration violations in the future.

Keywords: competition law, handling of violations, economic concentration.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 9 năm 2025]

Tạp chí Công Thương