Kinh tế Việt Nam 2016: Công nghiệp vẫn đóng vai trò chính trong tăng trưởng

Tăng trưởng toàn cầu năm 2016 đang theo hướng yếu đi so với dự kiến, chủ yếu phản ánh đà tăng trưởng bị suy giảm ở các nền kinh tế lớn và phát triển. Trong bối cảnh đó, môi trường kinh tế vĩ mô nước t

Các yếu tố tăng trưởng bền vững


                                                                          Nguồn: Tổng cục Thống kê (đồ họa: Hoàng Yến)

Môi trường kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, trước hết là do nền tảng tăng trưởng được giữ vững. Nhìn trên con số, tăng trưởng năm 2016 chỉ thấp hơn 2015, và cao hơn so với 3 năm còn lại trong 5 năm gần đây.

Phân tích theo cơ cấu, tăng trưởng 2016 chững lại chủ yếu do yếu tố tác động của hạn hán đến sản lượng nông nghiệp, sản lượng dầu thô bị cắt giảm, và sức cầu bên ngoài chững lại. Tuy nhiên, các yếu tố đảm bảo tăng trưởng căn bản - như sức cầu mạnh trong nước và các ngành sản xuất định hướng xuất khẩu - vẫn đứng vững.

Cụ thể, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 11 ước tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 6,5% của tháng trước. Tính chung 11 tháng, IIP tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn so với mức tăng 9,9% của cùng kỳ năm 2015.

Nhưng phân tích theo cơ cấu, thì chỉ số IIP năm 2016 tích cực hơn 2015. Bởi khu vực công nghiệp chế biến chế tạo vốn là nền tảng cho tăng trưởng, 11 tháng đầu năm 2016 tăng 11%, cao hơn so với 10,3% của cùng kỳ năm 2015. Nguyên nhân IIP năm nay thấp đến từ khu vực khai thác khoáng sản giảm 6,3% (do cắt giảm sản lượng khai thác dầu thô vì giá dầu thế giới vẫn thấp), trong khi cùng kỳ năm 2015 tăng 8%.

Yếu tố thứ hai là sức cầu trong nước mạnh lên. Tính chung 11 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 3,2 triệu tỷ đồng, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước. Điều đáng quan tâm hơn, giá trị lõi trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng là doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt trên 2,4 triệu tỷ đồng, chiếm tới 76%, cho thấy động lực tăng trưởng của khu vực này rất mạnh mẽ.

Yếu tố thứ ba là trong bối cảnh sức cầu thế giới giảm, xuất khẩu nước ta đã lấy lại đà tăng trưởng với mức tăng 7,5% trong 11 tháng đầu năm nay, cao hơn so với mức tăng 7%, 5,9% và 6,6% của quý III, quý II và quý I.

Đi đôi với các yếu tố tăng trưởng căn bản nói trên là lạm phát cơ bản vẫn được kiểm soát và chỉ số giá tiêu dùng vẫn thấp hơn mục tiêu 5% của Chính phủ.

Cảnh giác với rủi ro

Tính đến nay, sản xuất công nghiệp vẫn đóng vai trò chính trong tăng trưởng; tiếp theo là sức cầu trong nước và hoạt động ngoại thương. Tuy nhiên, mức tăng trưởng tương đối cao của nước ta đạt được trong năm nay một phần nhờ tín dụng tiếp tục tăng nhanh và chính sách tài khóa hỗ trợ mà điểm nhấn là đẩy mạnh đầu tư công.

Những biện pháp này có thể kích thích tăng trưởng trong ngắn hạn - nhưng nếu kéo dài sẽ làm gia tăng những rủi ro tài khóa và tài chính trong trung hạn. Mặc dù áp lực lạm phát vẫn ở mức thấp, nhưng hiện đang có những quan ngại về việc chính sách tiền tệ mở rộng trong thời gian dài - giống như trước đây - sẽ gây áp lực lên giá cả tài sản, từ đó kích hoạt áp lực lạm phát về lâu dài.

Tăng trưởng tín dụng vẫn ở mức cao, trong 11 tháng đạt khoảng 14%, và nhiều khả năng đạt 17-18% tính đến hết tháng 12 làm dấy lên quan ngại về tăng rủi ro đối với ổn định tài chính trong trung hạn… Tăng trưởng tín dụng cao gấp gần ba lần so với tốc độ tăng trưởng GDP - có thể làm tăng những rủi ro về ổn định tài chính, đặc biệt với tỷ lệ tín dụng trên GDP, hiện ở mức 112% là khá cao đối với quốc gia có mức thu nhập như nước ta.

                                                                     Nguồn: Tổng cục Thống kê (đồ họa: Hoàng Yến)

Bên cạnh đó, bội chi ngân sách cũng đang ở mức cao đã và diễn ra trong nhiều năm gần đây. Bội chi ngân sách bình quân ở mức 5,5% GDP trong 5 năm qua, dẫn đến nợ công tăng cao. Nợ công thời gian qua tăng nhanh và đang tiến sát đến ngưỡng theo luật định ở mức 65% GDP. Bộ Tài chính cho biết tổng dư nợ công của Việt Nam tính đến cuối năm 2015 (gồm nợ của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương) được ước tính ở mức 62,2% GDP.

Hành động quyết liệt

Áp lực tài khóa kéo dài khiến Chính phủ đang có những hành động kiên quyết cả trước mắt lẫn trong trung hạn.

Đầu tiên là Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 22/CT-TTg, tháng 6/2016, về tăng cường triển khai các nhiệm vụ tài chính và ngân sách nhà nước năm 2016. Theo đó, tăng cường hiệu quả và hiệu suất đầu tư công là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất để củng cố chi đầu tư. Bên cạnh đó Chính phủ đưa ra các biện pháp kiên quyết nhằm ổn định và hợp lý hóa chi thường xuyên, và đạt được kết quả khả quan. Tổng chi ngân sách nhà nước năm 2016 dự kiến tăng khoảng 3,5% theo giá hiện hành so với số ước thực hiện năm 2015, thấp hơn rất nhiều so với tốc độ tăng bình quân mỗi năm 14% giai đoạn 2011 - 2015.

Tiếp đến, Chính phủ tiếp tục cam kết giảm bội chi ngân sách trong trung hạn nhằm kiềm chế tốc độ tỷ lệ nợ công trên GDP. Kế hoạch tài chính trung hạn 2016 - 2020, được Quốc hội thông qua ngày 9/11/2016, cho thấy dự kiến từng bước điều chỉnh ngân sách trong 4 năm tiếp theo. Kế hoạch đã xác định mục tiêu giảm bội chi ngân sách xuống 3,5% GDP vào năm 2020.

Nhằm đạt được những mục tiêu này, Chính phủ hiện đang tìm cách tăng cường huy động thu. Về chính sách thu, sẽ tiếp tục cải cách chính sách theo hướng đẩy mạnh huy động thu trong nước.

Theo đánh giá của Bộ Tài chính, số thu của Việt Nam vẫn ở mức cao, nhưng đã giảm dần trong những năm gần đây. Tỷ trọng tổng thu và thu từ thuế trên GDP lần lượt giảm từ mức 26% và 23% giai đoạn 2006 - 2010 xuống còn 23% và 20,4% giai đoạn 2011 - 2015. Có 3 yếu tố làm giảm tỷ trọng: (1) giảm thu từ dầu thô; (2) giảm mạnh thuế xuất nhập khẩu do hội nhập toàn cầu sâu hơn; và (3) giảm nguồn thu từ đất. Tuy nhiên, những năm gần đây cơ cấu thu đã có những chuyển biến tích cực do số thu dựa vào các nguồn thu bền vững hơn. Tỷ lệ thu nội địa trên tổng thu tăng đáng kể từ 52% giai đoạn 2001 - 2005 lên đến trên 68% giai đoạn 2011 - 2015.

Chiến lược cải cách thuế tổng thể của Chính phủ hướng đến chấm dứt xu hướng giảm thu và ổn định thu ở mức khoảng 22 - 23% GDP. Theo Bộ Tài chính, Chiến lược này sẽ giúp xử lý được những thách thức về cân đối ngân sách, suy giảm nguồn thu từ xuất nhập khẩu và tình trạng xói mòn cơ sở tính thuế ngày càng lớn do hội nhập toàn cầu; đồng thời cải thiện được môi trường đầu tư.

Cùng với đó, là chương trình phát triển kinh tế trong trung hạn, bao gồm phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước đi đôi với tái cơ cấu đầu tư công; tái cơ cấu các thị trường nhân tố sản xuất quan trọng, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất, thị trường nhân lực và thị trường khoa học công nghệ; tái cơ cấu ngân sách nhà nước và khu vực dịch vụ sự nghiệp công.

Những biện pháp trên cuối cùng là để mang lại một chính sách tài khóa bền vững, ổn định kinh tế vĩ mô nước ta, coi đây là môi trường thuận lợi thu hút đầu tư, kể cả các tầng lớp dân cư, tiến tới mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất.

Ông Ousmane Dione - Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam: Kinh tế Việt Nam đã phản ứng tốt với biến động toàn cầu

Năm 2016 là  năm thứ 5 liên tiếp Việt Nam duy trì ổn định kinh tế vĩ mô thành công. Năm 2016 cũng được đánh dấu bởi lạm phát một con số, tỉ giá tương đối ổn định, và cán cân thương mại được cải thiện. Vấn đề quan trọng là, mặc dù môi trường toàn cầu bất lợi, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn phản ứng tốt nhờ cầu trong nước mạnh và ngành công nghiệp chế tạo hướng về xuất khẩu; với tốc độ tăng trưởng đạt 6,0% - thuộc nhóm cao nhất so với khu vực và trên toàn cầu.

Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số thách thức trong quá trình thực hiện mục tiêu đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội  của Việt Nam giai đoạn 2016-2020:

Thứ nhất, đó là thách thức về năng suất. Mức tăng năng suất lao động của Việt Nam chưa đạt 4% và có xu thế đi xuống. Trong khi đó tỷ lệ tăng năng suất lao động của Trung Quốc là trên 7%, của Hàn Quốc là 5% khi các nước này còn ở cùng trình độ phát triển như hiện nay của Việt Nam.

Để chấm dứt tình trạng này cần thúc đẩy, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển, khuyến khích các thành phần kinh tế kết nối và cạnh tranh.

Thứ hai, sự gia tăng ảnh hưởng lên môi trường của Việt Nam. Trong 5 năm qua, phát thải khí nhà kính của Việt Nam tăng với tốc độ cao nhất trong khu vực. Ngành năng lượng là nguồn phát thải lớn nhất. Hiện nay, thủy điện chiếm 42% tổng sản lượng điện nhưng tiềm năng đã được khai thác hết. Với mức sử dụng điện tăng 10%/năm chúng ta cần tính đến khai thác các nguồn năng lượng mới.

Thứ ba, giảm nghèo và phúc lợi xã hội: Tuy đã đạt nhiều tiến bộ nhưng nhiều người dân Việt Nam vẫn thuộc diện nghèo. Nhiều chỉ số cho thấy còn hạn chế trong việc cải thiện cơ hội kinh tế và xã hội cho nhóm dân tộc thiểu số. Tỷ lệ giảm nghèo trong nhóm thiểu số giai đoạn 2012-2015 còn khiêm tốn, bao gồm cả tiêu chí giảm suy dinh dưỡng. Cần gấp rút tìm ra phương pháp và cách làm mới nhằm giảm nghèo và tăng phúc lợi cho người thiểu số.

Cuối cùng, đó là câu hỏi Việt Nam sẽ huy động vốn như thế nào cho chương trình phát triển đầy tham vọng của mình trong 5 năm tới. Trong 5 năm qua tỷ lệ thu ngân sách/GDP đã giảm từ 27% xuống 21%. Tăng cường thu trong nước, tiết kiệm chi, tăng cường năng lực quản lý nợ nhất là thị trường nợ trong nước sẽ giúp đảm bảo thực hiện các mục tiêu phát triển mà không rơi vào tình trạng mất bền vững nợ. Ngoài ra, cần sử dụng vốn ODA một cách chiến lược hơn, tiết kiệm hơn, hiệu quả hơn và hướng tới mục đích thu hút đầu tư tư nhân.

Tôi biết rằng Chính phủ quyết tâm hướng tới vai trò kiến tạo nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế một cách hòa nhập. Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng, với một kế hoạch hành động cụ thể, Việt Nam sẽ hoàn thành các mục tiêu trong kỳ kế hoạch 5 năm tới và các mục tiêu dài hơi hơn. Các đối tác phát triển sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam về kiến thức, kinh nghiệm và cách làm quốc tế.

Ông Trần Công Thắng - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách phát triển Nông thôn: Cần tận dụng tốt cơ hội trong hội nhập để thúc đẩy xuất khẩu nông sản

Năm 2016 xuất khẩu nông sản của Việt Nam cũng có nhiều thay đổi so với năm 2015. Nhìn chung các mặt hàng xuất khẩu chính đều có xu hướng tăng lên so với năm 2016 trừ mặt hàng gạo, sắn. Tính trung bình đến hết tháng 11/2016, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản của Việt Nam đạt 29,1 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm 2015.

Có thể nói thời gian vừa qua, Việt Nam đã hội nhập rất nhanh, rộng và sâu với thế giới. Hàng loạt các FTAs thế hệ mới đã được ký kết và tạo cơ hội thuận lợi cho nông sản Việt Nam xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Chúng ta cũng đã tận dụng khá tốt cơ hội này, chúng ta không ngừng khai thác thị trường cũ, phát triển thị trường mới. Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cùng với các ban ngành khác liên tục có những đàm phán nhằm khơi thông thị trường đưa sản phẩm của chúng ta ra nước ngoài, rất nhiều chương trình xúc tiến thương mại tại Việt Nam và nước ngoài được thực hiện. Nhờ đó mà xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng nhanh chóng từ khoảng 20 tỷ USD năm 2010 lên tới trên 30 tỷ USD như hiện nay. Mặc dù có sự tăng trưởng tốt nhưng có thể nói chúng ta vẫn chưa tận dụng tốt các cơ hội nhằm đẩy mạnh kim ngạch và lượng xuất khẩu nông lâm thủy sản hơn nữa ra thị trường bên ngoài. Có nhiều lý do, trong đó phải kể đến một số lý sau:

Thứ nhất, chủ yếu chúng ta vẫn xuất khẩu thô hoặc sơ chế nên giá trị xuất khẩu của chúng ta thấp dù lượng xuất khẩu khá cao.

Thứ hai, nhìn chung chất lượng nông sản của chúng ta còn thấp so với tiêu chuẩn quốc tế.

Thứ ba, sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam chưa đáp ứng tốt các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm của các nước nhập khẩu.

Thứ tư, công tác xây dựng, phát triển thương hiệu, truy xuất nguồn gốc xúc tiến thương mại còn yếu.

Để tận dụng tốt cơ hội mở rộng thị trường, tăng xuất khẩu nông sản thì Việt Nam cần thực hiện đồng bộ rất nhiều giải pháp, trong đó theo tôi cần tập trung vào 5 điểm sau:

- Thực hiện tốt tái cơ cấu sản xuất các ngành hàng nông sản xuất khẩu chủ lực để đáp ứng được yêu cầu của khách hàng tại các thị trường chính, vượt qua được hàng rào thuế và phi thuế theo các cam kết.

- Nâng cao năng lực hội nhập cho cơ quan quản lý, doanh nghiệp, hiệp hội, hợp tác xã và nhận thức của hộ nông dân

- Hoàn thiện môi trường thể chế, chính sách; nâng cao năng lực thực thi pháp luật và các quy định khác theo các cam kết quốc tế khác

- Nghiên cứu, đánh giá, dự báo tác động hội nhập.

- Xây dựng chiến lược hội nhập cho một số ngành hàng chủ lực như lúa gạo, cà phê, thủy sản, gỗ, cao su… để có định hướng rõ ràng về thị trường, sản phẩm và các chương trình hành động cụ thể cho từng ngành hàng.

Ông Lê Tiến Trường - Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex): Doanh nghiệp dệt may sẽ phải nỗ lực hơn để bảo vệ thị phần

Năm 2016 kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành Dệt May đạt 28,2 tỷ USD, tăng trưởng 5,2% so với cùng kỳ năm 2015. Đặt trong bối cảnh tình hình thị trường thế giới của cả năm có thể thấy Việt Nam là nước có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu về % cao nhất trong 6 nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Năm nay tiêu dùng của nước Mỹ về hàng dệt may giảm 4,84%, Nhật Bản giảm 1,7%, Hàn Quốc giảm hơn 4%, duy chỉ có châu Âu tăng 5%.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam vẫn xuất tăng được vào Mỹ 4,52%, tăng vào châu Âu 5,4%, tăng vào Nhật Bản 4,5% và tăng vào Hàn Quốc 4,2%. Như vậy tất cả tăng trưởng của chúng ta đều tăng dương, vượt xa so với mức nhập khẩu và tiêu dùng của các quốc gia này. Xét về khó khăn và thách thức của 2016, công tác thị trường, tìm kiếm đơn hàng mang tính ổn định gặp nhiều trở ngại hơn so với năm trước.

Dự báo chung về tình hình thị trường 2017 đối với ngành Dệt May cũng chưa có khả quan hơn năm 2016, ít nhất trong 6 tháng đầu năm. Trong quá trình thương lượng đơn hàng 6 tháng đầu năm 2017, cũng có những tín hiệu hy vọng cho quý 3, 4/2017 sẽ có mức độ tốt hơn.

Ngành Dệt May Việt Nam đang đặt mục tiêu tăng trưởng cho 2017 khoảng 7-8% trong kim ngạch xuất khẩu. Tăng 7-8% Dệt May Việt Nam đồng nghĩa với việc tăng gần 3 tỷ USD. Việc phát triển thêm 2,5-3 tỷ USD đơn hàng và khách hàng không phải là chuyện dễ dàng, đây là một thách thức, đặc biệt là các quốc gia cạnh tranh với Việt Nam đang quyết tâm bảo vệ thị phần của mình, các hoạt động bảo vệ thị phần của họ năm 2016 đã diễn ra hết sức quyết liệt để giúp cho giá các đơn hàng sản xuất từ nước họ sang các thị trường rẻ hơn so với Việt Nam. Dù cầu thế giới có cải thiện so với 2016 thì những nỗ lực cạnh tranh của các đối thủ vẫn tiếp tục gay gắt, quyết liệt. Trong khi đó, mà họ đã có lợi thế nhất định trong việc giảm giá đồng nội tệ. Như vậy hàng hóa của họ so với mức độ thay đổi tỷ giá chỉ 3-4% tại Việt Nam là hàng hóa của họ đã rẻ từ 6-10% so với hàng hóa Việt Nam.

Vì vậy 2017 tiếp tục ở trong tình thế của một năm với nhiều nỗ lực của các doanh nghiệp dệt may sẽ phải có mức cao hơn, cải thiện tốt hơn từ chi phí giá thành đến năng suất để bảo vệ được thị phần của mình.