Về diễn biến thị trường ngoại tệ:
Hiện nay, lãi suất trên thị trường tiền tệ quốc tế cũng tăng lên khá. Lãi suất tiền gửi USD trên thị trường liên ngân hàng Singapore – Sibor ngày 20-4-2006 kỳ hạn 1 tháng là 4,866/năm; kỳ hạn 2 tháng là 5,054%/năm, kỳ hạn 3 tháng là 5,211%/năm; kỳ hạn 6 tháng là 5,366%/năm và kỳ hạn 1 năm là 5,296%/năm. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng London – Libor cũng ở mức tương tự. Mức lãi suất đó, nếu doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, sản xuất hàng xuất khẩu của nước ta đi vay vốn ngoại tệ trực tiếp của nước ngoài thì cũng phải chịu lãi suất và phí lên tới 7,0%/năm
Trong khi đó, mức lãi suất tiền gửi USD cao nhất của một số NHTM ở nước ta hiện nay vẫn thấp hơn từ 0,3%/năm – 0,7%/năm so với lãi suất cùng kỳ hạn trên thị trường tiền tệ quốc tế. Cụ thể lãi suất tiền gửi USD cao nhất của một số NHTM cổ phần kỳ hạn 3 tháng là 4,1%/năm; kỳ hạn 6 tháng là 4,4%/năm; kỳ hạn 9 tháng là 4,6%/năm; kỳ hạn 12 tháng là 4,8%/năm. Một số NHTM khác còn có mức lãi suất tiền gửi USD thấp hơn. Lãi suất tiền gửi USD của NHTM cổ phần Đông á từ ngày 21-2-2006, kỳ hạn 1 tháng là 3,45%/năm; kỳ hạn 2 tháng là 3,70%/năm; kỳ hạn 3 tháng là 4,00%/năm; kỳ hạn 6 tháng là 4,20%/năm; kỳ hạn 9 tháng là 4,30%/năm và kỳ hạn 12 tháng là 4,65%/năm. Nhưng khi cho các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu trong nước vay vốn, thì các NHTM tính theo lãi suất SIBOR cộng với 1,5%-2,0%/năm phí, tổng cộng cũng khoảng 7,0%/năm. Song các NHTM trong nước tăng lãi suất tiền gửi USD, huy động vốn này nếu không cho vay được đối với các doanh nghiệp thì sẽ đầu tư trên thị trường tiền gửi quốc tế để tìm kiếm lợi nhuận. Bởi vì, sau khi trừ đi tỷ lệ dự trữ bắt buộc và chi phí huy động vốn thì các NHTM trong nước huy động vốn USD gửi trên thị trường liên ngân hàng Singapore vẫn có khoản chênh lệch là 0,2% - 0,6%/năm cho mỗi kỳ hạn, ngược lại, hầu như không có rủi ro như cho vay trực tiếp khách hàng trong nước. Việc đầu tư ngắn hạn trên thị trường tiền gửi quốc tế cũng làm cho các NHTM trong nước linh hoạt và chủ động được nguồn vốn USD, khi cần thì nhanh chóng rút về để cho vay hay thanh toán, nếu không cần thì tiếp tục gửi. Hình thức cạnh tranh trong kinh doanh tiền tệ này chính là phương thức đa dạng hoá danh mục đầu tư, phân tán rủi ro và hạn chế tối thiểu rủi ro của các NHTM theo thông lệ quốc tế. Bởi vậy, không chỉ là đối với USD, mà cả đối với nội tệ hiện nay, rất nhiều NHTM cổ phần cũng đầu tư trên thị trường liên ngân hàng trong nước, bán buôn vốn cho một số NHTM nhà nước, vừa chắc ăn, không có chi phí và không có rủi ro. Do đó, họ không chịu giảm lãi suất cho vay cho doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nào có kim ngạch xuất khẩu khá, cam kết chiết khấu bộ chứng từ qua ngân hàng thì sẽ được giảm lãi suất, nhưng mức giảm không nhiều.
Song bản thân lãi suất vay vốn ngoại tệ trong nước hiện nay cũng chỉ bằng gần 1/2 lãi suất vay vốn nội tệ, trong điều kiện tỷ giá ổn định, nên vay vốn ngoại tệ vẫn có lợi hơn. Vì vậy hiện nay, nhiều doanh nghiệp vẫn thích vay vốn ngoại tệ hơn. Nhu cầu vay vốn ngoại tệ vẫn tăng khá bởi nhu cầu vốn USD cho nhập khẩu máy móc thiết bị, hoá chất, nguyên nhiên vật liệu dệt may, xăng dầu, ô tô, linh kiện điện tử và máy tính, phụ tùng,…
Về lãi suất cho vay ngoại tệ, như đã nói ở trên cũng tăng lên theo mặt bằng chung về lãi suất trên thị trường trong nước và quốc tế, nhưng mức tăng chậm hơn. Lãi suất cho vay ngoại tệ được xác định trên nguyên tắc: lãi suất Libor cùng kỳ hạn đối với cho vay trung dài hạn, hay lãi suất Libor kỳ hạn 1 năm đối với cho vay ngắn hạn, cộng với phí từ 1,5% - 2,5%/năm. Như vậy tại thời điểm hiện nay, lãi suất Libor kỳ hạn 1 năm là 5,295%/năm, cộng với phí 1,5%/năm thì tính ra tương đương 6,8%/năm; trong khi lãi suất vay vốn nội tệ VND hiện nay phổ biến từ 12%/năm đến 14,4%/năm. Trong khi đó, tỷ giá tăng chỉ có 0,73% - 0,90% trong cả năm 2005 và chỉ tăng có 0,1% trong 2 tháng đầu năm 2006. Đây cũng là một nghịch lý, trong khi lãi suất USD liên tục tăng mạnh thì tỷ giá ổn định, trong hơn 1 năm qua vẫn xoay quanh mức 15.945 VND – 15.960 VND/ USD. Thậm chí thời gian gần đây, do FED tăng lãi suất và lãi suất huy động vốn tăng, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam còn giảm phí sử dụng vốn, linh hoạt loại phí này đối với khách hàng, ưu đãi đối với doanh nghiệp cam kết chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất khẩu qua Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Tỷ giá ổn định, lãi suất USD diễn biến phù hợp với thị trường trong nước và quốc tế, cung ngoại tệ dồi dào và cung cầu luôn ổn định. Tình hình đó có lợi cho cả doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp nhập khẩu, doanh nghiệp có vay nợ vốn USD ngân hàng trong và ngoài nước.
Về thị trường nội tệ:
Theo Quyết định mới đây của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam đang chuẩn bị khẩn trương phát hành 3.250 tỷ đồng trái phiếu dài hạn để tăng vốn điều lệ, gấp gần 2 lần khối lượng trái phiếu tăng vốn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam triển khai cuối năm 2005. Việc phát hành trái phiếu tăng vốn của Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% theo thông lệ quốc tế. Đây là bước khởi động đầu tiên trong kế hoặch cổ phần hoá ngân hàng này trong năm 2007 hoặc sau đó, tiếp theo Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông cửu Long. Trái phiếu này chưa được đưa ra cam kết là sẽ được chuyển đổi sang cổ phiếu khi Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam cổ phần hoá, nhưng được phát hành trên thị trường chứng khoán trong nước, theo phương thức đấu thầu lãi suất, tương tự như trái phiếu tăng vốn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Lãi suất sẽ do thị trường quyết định, nhưng được dự báo là sẽ khó mà thấp hơn lãi suất trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Bởi vì, mặt bằng lãi suất thị trường hiện nay đã tăng hơn cách đây 3 tháng và đang có dấu hiệu tiếp tục tăng lên. Nhu cầu mua trái phiếu đầu tư vào các ngân hàng thương mại Nhà nước sắp cổ phần hoá là rất lớn và bản thân Ngân hàng Đầu tư - Phát triển Việt Nam hoạt động có hiệu quả, nhất là trong lĩnh vực đầu tư dự án, cho vay trung dài hạn. Như vậy, sẽ có ít nhất là 3.250 tỷ đồng vốn trong xã hội sẽ được cạnh tranh thu hút vào kênh này, tác động lớn đến cung cầu vốn nội tệ trên thị trường đang có dấu hiệu nóng lên.
Một kênh thứ hai, đó là các NHTM cổ phần đồng loạt tăng vốn. Việc tăng vốn điều lệ của các NHTM cổ phần một mặt để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo thông lệ quốc tế là 8% trong điều kiện quy mô tài sản không ngừng tăng nhanh. Mặt khác để đáp ứng yêu cầu quy định trong Quyết định 88 của Thống đốc NHNN, theo đó từ tháng 6-2006 tới đây, mỗi chi nhánh của NHTM phải đảm bảo số vốn tự có là 20 tỷ đồng. Bên cạnh đó, để không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, đầu tư vốn vào hệ thống trụ sở, văn phòng, hiện đại hoá công nghệ, thì khi quy mô kinh doanh tăng lên, vốn điều lệ cũng phải tăng lên tương ứng.
Tuy nhiên, đứng trên giác độ thị trường, thì việc gần 10.000 tỷ đồng đã và sẽ được thu hút vào việc tăng vốn làm cho cầu vốn tăng nhanh, trong khi cung vốn tăng chậm. Đành rằng, nguồn vốn đầu tư mua cổ phiếu và trái phiếu có một phần là vốn vay các NHTM và vốn của nhà đầu tư nước ngoài, nhưng dù sao cũng làm cung cầu vốn trong mỗi NHTM tăng và tác động lớn đến diễn biến thị trường tiền tệ hiện nay.
Một tác động tiếp theo của thị trường nội tệ đó là nhu cầu vay vốn của khách hàng tại các NHTM tăng lên cho các nhu cầu đầu tư, cho mở rộng sản xuất kinh doanh, cho thực hiện các hợp đồng xuất khẩu, triển khai các dự án, cho sản xuất vụ mới,…. của đông đảo các doanh nghiệp. Ngược lại, một số lượng lớn ước tính lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng các NHTM cho vay các dự án đầu tư bất động sản, các dự án thi công công trình giao thông,… chưa thu nợ được để tái quay vòng cho vay. Do đó, nhu cầu huy động vốn của NHTM tăng mạnh.
Song, diễn biến của thị trường nội tệ chưa có dấu hiệu tăng rõ rệt bởi lãi suất hiện nay đang ở mức rất cao rồi. Lãi suất huy động cao nhất thuộc về các Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, lên tới 0,9%/tháng; một số NHTM cổ phần có lãi suất cao nhất là 0,82% - 0,83%/tháng. Một số NHTM nhà nước có lãi suất cao nhất là 0,77%/tháng. Nhìn chung, giới hạn cao nhất của lãi suất huy động vốn thì không tăng, nhưng lãi suất tăng ở các kỳ hạn ngắn hơn.
Như vậy, lãi suất của hai NHTM điển hình cho hai khối NHTM nhà nước và khối NHTM cổ phần nói trên chỉ tăng ở các kỳ hạn ngắn, từ 1 năm trở xuống và chưa vượt giới hạn lãi suất huy động vốn cao nhất là 0,77%/tháng và 0,82%/tháng cho kỳ hạn 3 năm.
Dự báo, trong thời gian tới, lãi suất ngoại tệ tiếp tục có xu hướng tăng do nhiều khả năng Cục Dự trữ liên bang Mỹ - FED sẽ tiếp tục tăng lãi suất chủ đạo, nhưng chủ yếu tăng ở lãi suất huy động USD, còn lãi suất cho vay USD tăng chậm hơn. Thị trường tiền tệ Đồng Việt Nam cũng sẽ tiếp tục nóng lên nhưng lãi suất tăng chủ yếu ở các kỳ hạn ngắn và tăng chi phí khuyến mại, nhưng tỷ giá VND/USD vẫn ổn định. Cạnh tranh tăng lãi suất một chiều như từng xảy ra trong năm 2004 và năm 2005 sẽ giảm hẳn mà thay vào đó bằng nghệ thuật marketing, mạng lưới, phong cách giao dịch,…Các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp hoạt động nhiều về vốn ngoại tệ cần chủ động nắm bắt xu hướng này để có chiến lược hiệu quả trong kinh doanh. Lãi suất tăng, lại thêm một gánh nặng chi phí vốn vay cho doanh nghiệp.