Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, ngành CNPT ở nước ta mới chỉ thành công ở lĩnh vực sản xuất xe máy và điện gia dụng. Ngành sản xuất xe máy có các tập đoàn lớn của Nhật Bản, đặc biệt là Đài Loan đầu tư góp vốn liên doanh xây dựng các nhà máy sản xuất linh kiện, phụ tùng, đáp ứng khoảng 70% nhu cầu về phụ tùng trong nước. Tương tự, ngành Điện gia dụng cũng đạt tỷ lệ nội địa hóa từ 70-80%. Những ngành còn lại hầu như chỉ đạt đến mức độ gia công giai đoạn cuối của sản phẩm. Vì thế mà công nghiệp Việt Nam bị phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu linh kiện từ nước ngoài. Ví dụ như ngành Dệt-May phải nhập khẩu tới 80% nguyên liệu. Trong sản xuất nhựa, tuy nước ta có tới 200 doanh nghiệp, nhưng trình độ công nghệ phần lớn chỉ dừng ở mức sản xuất hàng tiêu dùng thông thường.
Ông Kyoshiro Ichikawa, chuyên gia tư vấn đầu tư của Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản tại Hà Nội (JETRO), một người nước ngoài được coi là có “thâm niên” trong lĩnh vực hoạt động xúc tiến đầu tư ở Việt Nam cho rằng, so với sự tưởng tượng của ông, ngành CNPT Việt Nam mặc dù đã đạt được những bước tiến mới, song vẫn ở mức thấp. Theo kết quả khảo sát của JETRO, trong lĩnh vực sản xuất xe máy, chất lượng và nguồn cung về CNPT của Việt Nam khá tốt. Ngành Điện gia dụng cũng đã sản xuất một số sản phẩm gia công có thể chấp nhận được. Nhưng ôtô thì không. Việt Nam có quá nhiều công ty sản xuất ốc vít, lò xo, giảm sóc... chưa đạt chất lượng. Những phụ tùng có thể cung cấp được như ắc quy, lốp... thì lại chỉ chiếm một phần nhỏ.
Có thể dễ dàng nhận thấy, yếu tố quan trọng trong việc hình thành và thúc đẩy sự phát triển của ngành CNPT là nhận thức của bản thân các doanh nghiệp về tâm quan trọng của nó đối với việc nâng cao sức cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam. Mặc dù gần đây, các cơ quan nhà nước mới bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển CNPT, nhưng các doanh nghiệp quốc doanh, chủ thể chính trong lĩnh vực này, từ trước đến nay, lại thường hoạt động theo kiểu trọn gói (sản xuất từ A đến Z). Do đó, họ hầu như không có khái niệm về ngành CNPT. Nếu có CNPT chỉ được hiểu đơn thuần là sản xuất phụ tùng, trong khi trên thực tế, CNPT bao gồm cả việc gia công và xử lý sản phẩm. Khi tham gia sản xuất từ A đến Z, hiệu quả sản xuất của công ty đó sẽ không cao vì cần rất nhiều vốn đầu tư. Và vì thế, vốn đầu tư của họ buộc phải dàn trải... Do đó, các công ty hoạt động trong ngành CNPT chỉ nên chọn, tham gia vào một lĩnh vực sản xuất. Ví dụ như trường hợp một doanh nghiệp chế tạo và lắp ráp động cơ diesel chuyên dụng cho máy nông nghiệp và tàu thuyền. Trước đây, doanh nghiệp này hoạt động theo cơ chế sản xuất trọn gói, nên phải thực hiện rất nhiều công đoạn: từ cán thép, đúc, gia công trên máy, xử lý bề mặt, xử lý nhiệt cho đến lắp ráp. Nhưng gần đây, doanh nghiệp này có xu hướng tăng cường chuyên môn hóa vào lĩnh vực cán thép. Một doanh nghiệp khác ở gần doanh nghiệp nói trên lại tập trung vào gia công trên máy. Hai doanh nghiệp này đều có xu hướng chuyển sang cơ chế chuyên môn hóa. Và từ đó, họ tập trung vốn để đầu tư mới máy móc, thiết bị và nâng cao trình độ kỹ thuật của công ty mình để đáp ứng các đơn đặt hàng gia công cán thép và gia công linh kiện tinh xảo cho các hãng sản xuất xe máy của Nhật. Có thể nói, đây là những doanh nghiệp hết sức năng động và có cách làm hoàn toàn theo hướng tập trung đầu tư chiều sâu thay vì đầu tư chiều rộng, vừa dàn trải, vừa kém hiệu quả.
Việc thay đổi này cũng không thực sự khó khăn như nhiều doanh nghiệp lo ngại, mà thực chất là quá trình thay đổi từ trong cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp. Trong quá trình chuyển đổi, dần dần, doanh nghiệp có thể tái đào tạo công nhân, hướng họ vào những ngành đang theo đuổi. Việt Nam hiện đang có 3 loại hình doanh nghiệp cơ bản là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế nước ngoài, trước hết, Việt Nam nên cải cách các doanh nghiệp quốc doanh vì đây là những doanh nghiệp đã tồn tại rất lâu, cần phải tận dụng, hướng dẫn họ sản xuất theo xu hướng chuyên môn hóa, tập trung vào một ngành. Mặt khác, một số ngành thuộc CNPT cần vốn đầu tư rất lớn, không phải doanh nghiệp tư nhân nào cũng làm được. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ cũng đóng vai trò quan trọng trong phát triển CNPT. Vì vậy, Chính phủ Việt Nam nên có chính sách hỗ trợ phát triển như là về chính sách thuế, tín dụng... đối với các doanh nghiệp này.
Tuy nhiên, muốn có một ngành CNPT phát triển và bền vững, điều quan trọng không chỉ nằm ở nhận thức của doanh nghiệp, mà còn do nhận thức của Nhà nước. Hiện nay, trong hệ thống luật pháp, vẫn chưa có định nghĩa về ngành CNPT, dẫn đến việc trong các quy định pháp quy không hề có chính sách khuyến khích đầu tư và phát triển ngành CNPT. Do đó, trước hết, cần phải xây dựng khái niệm CNPT trong hệ thống luật pháp. Ngoài ra, để tận dụng hiệu quả các nguồn lực còn hạn hẹp, Chính phủ Việt Nam cần xác định rõ các lĩnh vực cần được ưu tiên để phát triển CNPT. Tại công nghiệp hiện nay, các lĩnh vực như cán thép, đúc, xử lý nhiệt và chế tạo là những lĩnh vực còn tương đối lạc hậu, nên có thể tập trung phát triển CNPT trong những lĩnh vực này. Việc tăng năng suất của ngành Công nghiệp lắp ráp cũng ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của ngành CNPT. Do vậy, cần xây dựng chính sách phát triển tất cả các ngành công nghiệp đang chuẩn bị áp dụng thuế suất CFPT trong AFTA vào năm 2006. Đơn cử một số ngành công nghiệp cần nhiều vốn đầu tư để sản xuất linh kiện, phụ tùng như ngành sản xuất ôtô. Việc buộc các doanh nghiệp lắp ráp phải thực hiện chính sách nội địa là một điều có thể gây ra những tác động tiêu cực và không đạt kết quả như mong muốn.
Theo kinh nghiệm của Nhật Bản, muốn phát triển CNPT, điều đầu tiên phải quan tâm là phát triển nguồn nhân lực. Hiện nay, đội ngũ quản lý, kỹ sư, công nhân lành nghề và tay nghề cao của Việt Nam còn thiếu và chất lượng chưa cao. Thiết bị giảng dạy ở các trường cao đẳng, đại học, dạy nghề rất nghèo nàn. Có thể lấy trường Đại học Bách khoa Hà Nội làm ví dụ. Thiết bị giảng dạy rất thiếu, vì thế số lượng sinh viên có nguyện vọng thi vào khoa Chế tạo máy rất ít. Họ chủ yếu quan tâm đến các khoa mũi nhọn như: Công nghệ thông tin, Điện tử viễn thông... Mặt khác, thông tin về các doanh nghiệp cần phải được tổ chức tốt hơn. Hiện nay, nhiều công ty hoạt động trong ngành CNPT của Việt Nam hoạt động khá tốt, nhưng vì không có hệ thống thông tin doanh nghiệp nên những doanh nghiệp nước ngoài không biết đến sự tồn tại của những công ty này.
Nằm trong khuôn khổ thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản, sắp tới, JETRO sẽ tổ chức một cuộc triển lãm về ngành CNPT giữa các công ty Nhật Bản và Công ty Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh. Tại triển lãm, các công ty Nhật Bản sẽ trưng bày những gì họ muốn mua, còn các công ty Việt Nam sẽ nhận thấy mình có thể sản xuất được những sản phẩm nào thì đem ra chào giá. Đây sẽ là một cuộc “mở mắt” cho các doanh nghiệp Việt Nam trong nỗ lực phát triển ngành CNPT.
Làm gì để phát triển Công Nghiệp phụ trợ ở Việt Nam?
TCCT
Tháng 12/2003, Việt Nam và Nhật Bản đã ký cam kết “Sáng kiến chung Việt Nhật” nhằm đưa ra “Kế hoạch hành động giai đoạn 2004-2005”. Đầu năm 2005, Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản tại Hà Nội (JETRO